Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 98
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04
năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Chuyển
Ngữ: Minh Tiến
Giảo chánh và hiệu đính: Đức Phong, Huệ Trang và Như Ḥa
Tập 195
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm ba mươi, hàng thứ năm đếm từ dưới lên, xem từ câu thứ nh́:
“Phục dĩ cụ túc vô lượng bất khả tư nghị trang nghiêm, cố vạn vật nghiêm tịnh, cùng vi cực diệu, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương, xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh” (Cũng do đầy đủ vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu đến, liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh. Mùi hương xông khắp, chúng sanh trong mười phương thế giới ngửi thấy đều tu Phật hạnh). Chúng ta xem đến chỗ này. Đoạn kinh văn này thuật lại t́nh h́nh sau khi tỳ-kheo Pháp Tạng kiến tạo thành tựu cơi Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc từ đâu mà có, được xây dựng như thế nào, trong phần trước đă tŕnh bày rồi. Tại sao thế giới ấy tốt đẹp như vậy, [những điều này] rất đáng cho chúng ta học tập. Tỳ-kheo Pháp Tạng tham quan, thăm hỏi, khảo sát các cơi nước của mười phương chư Phật, Ngài đến những cơi ấy chọn lấy những điều tốt, bỏ những điều xấu của mỗi thế giới, chọn lọc như vậy rồi xây dựng thế giới Cực Lạc. Do vậy, trong các cơi nước chư Phật, thế giới này là thuần tịnh, thuần thiện, chư Phật cũng khen ngợi, xưng tán A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”
(quang
minh
tôn
quư
nhất,
là
vua
trong
các
vị
Phật). Cảnh giới của Phật, Bồ Tát chẳng giống như cảnh giới cơi người; khi thấy kẻ khác tốt đẹp, con người sẽ khởi ḷng đố kỵ, trong cảnh giới Phật, Bồ Tát chẳng như vậy. Không chỉ chẳng đố kỵ, mà c̣n sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi hoàn cảnh tu học tốt đẹp như vậy. V́ thế, mười phương chư Phật chẳng vị nào không chiêu sinh giùm Ngài, giúp Ngài tuyên truyền, thậm chí c̣n gởi học tṛ giỏi của ḿnh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đến đó để làm ǵ? Để được huấn luyện, đến đó bèn có thể thành Phật. Đây là tôi thuật lại những điều đă nói trong đoạn trước, chúng ta có thể thấy thế giới đó tốt đẹp và ảnh hưởng của nó.
Thế giới Cực Lạc “cụ túc vô lượng trang nghiêm bất khả tư nghị” (đầy đủ vô lượng trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn), câu này là nói tổng quát. Chúng ta gọi “trang nghiêm” là “chân thiện mỹ huệ”. Trong thế gian này, nói thật ra, “chân thiện mỹ huệ” chỉ là hữu danh vô thực; trong thế giới Cực Lạc mới là có thật, chẳng giả. Trong sáu câu tiếp theo, đối với từ ngữ “vạn vật nghiêm tịnh”, “nghiêm” là trang nghiêm, “tịnh” là thanh tịnh, cũng là nói thế giới ấy là cơi Tịnh Độ, chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Không chỉ vật chất chẳng bị ô nhiễm, mà tinh thần càng chẳng bị ô nhiễm. “Cùng vi cực diệu” là lời lẽ h́nh dung, “cùng” (窮) nghĩa là cùng tận, [“cùng vi cực diệu” là] vi diệu tới cùng cực, chẳng có cách nào diễn tả được! Ánh sáng từ nơi ấy rạng ngời như gương soi vậy. “Triệt chiếu thập phương” [nghĩa là] chiếu soi mười phương thế giới rơ ràng, chiếu hết sức tỉ mỉ. “Xúc quang an lạc” nghĩa
là
chúng sanh trong mười phương thế giới đều có thể tiếp xúc ánh sáng ấy. Thế giới [Sa Bà] này có thuộc trong phạm vi của ánh sáng ấy hay không? Có! Tại sao chúng ta không cảm thấy? Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă nói điều này rất nhiều, đó là v́ chúng ta có chướng ngại. Thí dụ như lúc mặt trời chiếu sáng khắp mặt đất, chúng ta ra ngoài cứ khăng khăng che dù, không để ánh mặt trời chiếu tới. V́ chúng ta che dù nên ánh mặt trời không chiếu tới, đó là chính ḿnh có chướng ngại. Hiện thời, chướng ngại của chúng ta là ǵ? Kinh đă nói rất rơ ràng, chướng ngại của chúng ta chính là tập khí phiền năo. Phiền năo vô lượng vô biên, nhằm dạy học thuận tiện, đức Phật đă quy nạp vô lượng vô biên phiền năo thành ba loại lớn: Loại thứ nhất là Căn Bản Vô Minh. Vô minh là ǵ? Là chúng ta đă mê. Trong Phật pháp đă nói rất rơ: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Thật ra, chúng ta chẳng khác Tỳ Lô Giá Na Phật, chẳng khác A Di Đà Phật; thật vậy, chẳng giả! Tại sao nay lại khác biệt lớn như vậy? Các Ngài giác ngộ, c̣n chúng ta mê hoặc. Do đó, phiền năo thứ nhất là mê, mê mất tự tánh, chẳng biết ḿnh là ǵ, đây là phiền năo thứ nhất, gọi là Căn Bản Phiền Năo. Thứ nh́ là phân biệt, thứ ba là chấp trước. Phân biệt c̣n gọi là Trần Sa Phiền Năo, chữ “trần sa” (cát bụi) h́nh dung những ư niệm phân biệt rất nhiều. Ư niệm trước vừa diệt, ư niệm sau liền khởi lên, nên dùng trần sa để tỷ dụ. Chấp trước c̣n gọi là Kiến Tư Phiền Năo; Kiến là kiến giải, Tư là tư tưởng, cũng có nghĩa là quư vị đối với người, đối với sự, đối với hết thảy vạn vật, quư vị nh́n sai lầm, suy nghĩ sai lầm. Những ǵ Phật pháp dạy chúng ta chẳng ngoài chuyện nhận biết Thật Tướng của các pháp, tức là chân tướng của hết thảy các pháp. Khi quư vị đă nhận biết chân tướng, sẽ không mê nữa, sẽ không phân biệt nữa, mà cũng không chấp trước nữa, chướng ngại sẽ bị diệt trừ. Đến lúc đó, quư vị sẽ thấy Phật quang đích thực đang chiếu soi nơi này, chúng ta sẽ cảm nhận được, thật sự biết Phật quang đang chiếu đến thân chúng ta.
Câu kế tiếp nói đến sự lợi ích sẽ đạt được [do Phật quang chiếu soi], thứ nhất là “cấu diệt”, thứ nh́ là “thiện sanh”. Cấu (垢) nghĩa là nhiễm ô, nghĩa là phiền năo. [“Cấu diệt” là] phiền năo sẽ đoạn dứt, khi Phật quang chiếu tới th́ phiền năo liền dứt. Khi phiền năo chẳng c̣n, thiện căn sẽ sanh khởi. “Cấu diệt thiện sanh” có lợi ích quá lớn. Trong giáo pháp Đại Thừa, chữ Thiện này được gọi là “minh tâm kiến tánh”, chẳng phải là Thiện thông thường, chẳng phải là Thiện trong thiện - ác b́nh thường, thiện kiểu ấy chẳng đáng kể. Thiện ở đây là kiến tánh, tức là thành Phật, quư vị và chư Phật Như Lai có cùng một cảnh giới. Không chỉ có Quang, mà c̣n có Hương. “Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh” (Mùi hương xông khắp mười phương thế giới, chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh), Phật quang và Phật hương chúng ta đều có. Không chỉ riêng chúng ta có, mà hết thảy hiện tượng vật chất đều có, tại sao? V́ chẳng ĺa tự tánh, đó là đức tánh vốn sẵn có trong tự tánh. Sau khi mê mất tự tánh, đức tướng đó bị biến chất, chẳng c̣n có tác dụng như thuở đầu, chúng ta phải hiểu sự thật này, phải hiểu lư này. Mười mấy năm qua, tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở Nhật đă làm thí nghiệm với nước, nước là khoáng vật, [những cuộc thí nghiệm ấy] chứng minh nước có thể thấy, có thể nghe, và hiểu được ư nghĩ của con người. Chúng ta dùng thiện niệm đối với nó, trong pḥng thí nghiệm, quư vị [dùng kính hiển vi để nh́n] sẽ thấy nước kết tinh vô cùng đẹp đẽ. Nếu dùng ác niệm đối với nó, nước sẽ phản ứng bằng cách kết tinh rất xấu xí. Thí nghiệm mấy triệu lần đều chứng tỏ điều này là thật, chứ chẳng giả. Đại Thừa Phật pháp thường diễn tả điều này là “bất cứ hiện tượng vật chất nào cũng đều có kiến, văn, giác, tri”, tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă thí nghiệm và chứng minh điều ấy. Phản ứng th́ sao? Phản ứng gồm có sắc, thanh, hương, vị, hiện nay ông ta chỉ thấy được phản ứng nơi sắc mà thôi, c̣n hương th́ chưa thí nghiệm được, âm thanh và mùi vị cũng chưa thí nghiệm được! Tôi nói với tiến sĩ Giang Bổn Thắng: “Phật pháp là khoa học cao cấp. Hiện thời, ông mới phát hiện một điều, c̣n ba điều chưa làm được, nhưng chúng chắc chắn là có, hăy tiếp tục nghiên cứu”. Không chỉ nước mới có, mà cát, bụi, tro cũng có. Sau đó, ông nghiên cứu phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt cơ bản. Hiện tại, các nhà Lượng Tử Lực Học đă nghiên cứu, nhận thấy c̣n một thứ nhỏ hơn nữa là “tiểu quang tử”, có lẽ nó là hạt nhỏ nhất, chẳng thể phân chia nhỏ hơn nữa, họ đă thấy được thứ này. Tiểu quang tử nhỏ như vậy mà cũng có kiến, văn, giác, tri.
Trong kinh Phật có nói, quư vị thấy rất nhiều người niệm Tâm Kinh, kinh này rất phổ biến, câu đầu tiên là “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”. Ngũ Uẩn được nói trong Phật pháp chính là tiểu quang tử. Một hạt nguyên tử hoặc điện tử cũng do Ngũ Uẩn hợp thành. Sắc là hiện tượng vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là hiện tượng tinh thần, chắc chắn những thứ do nó (nguyên tử hoặc điện tử) phát ra sẽ có h́nh tướng, âm thanh, và hương vị. Do đó, trong Phật pháp, toàn thể vũ trụ là sống động, chẳng phải là chết cứng. Đối với âm thanh, chúng ta cũng phóng quang, nhưng quang minh của chúng ta xen tạp tập khí phiền năo nên quang minh ấy chẳng tốt đẹp. Phật chẳng có phiền năo, chẳng lo lắng, chẳng có thị phi, nhân ngă, chẳng có tập khí, nên quang minh của Phật là quang minh nguyên sơ, chẳng bị biến chất mảy may, c̣n quang minh của chúng ta đă biến chất. Các khoa học gia nói mỗi người đều là một đài phát xạ, tư tưởng của chúng ta có quang minh, khởi tâm động niệm đều có quang minh. Làn sóng ánh sáng ấy vừa phát ra, bèn lan truyền trọn khắp pháp giới hư không giới, toàn thể đều là một hiện tượng dao dộng. Vũ trụ là một màng lưới dao động, giống như mạng Internet trong hiện tại. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chỉ cần dấy lên một ư niệm, tốc độ của làn sóng chấn động bởi ư niệm ấy rất nhanh. Làn sóng từ vật chất phát ra chẳng thể sánh bằng làn sóng phát ra từ tinh thần. Khi ư niệm vừa khởi lên, [làn sóng ấy] liền lập tức trọn khắp hư không giới. Sóng của hiện tượng vật chất c̣n có hạn chế, hiện thời chúng ta cho rằng [tốc độ của] sóng ánh sáng nhanh nhất, ba trăm ngàn cây số trong một giây, đó là nói về vật chất. Nhưng khi chúng ta khởi ư niệm, sóng ư niệm nhanh hơn sóng ánh sáng rất nhiều, chẳng thể so sánh. Khi ư niệm vừa khởi lên, toàn thể pháp giới hư không giới đều nhận được. Hằng ngày chúng ta cũng nhận sóng từ vũ trụ, bản thân chúng ta cũng phát ra sóng, nhưng chính chúng ta cũng không biết. Đến lúc tâm thanh tịnh th́ sẽ nhận biết.
Kinh dạy chúng ta mục tiêu tu hành, thứ nhất là tâm thanh tịnh, thứ nh́ là tâm b́nh đẳng, thứ ba là giác. Giác nghĩa là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Trong ba tầng cấp này, A La Hán chứng đắc thanh tịnh, Bồ Tát chứng đắc b́nh đẳng, Phật chứng đắc giác. Ba tầng lớp ấy, cao nhất là giác, thấp nhất là thanh tịnh. Ngày nay chúng ta học tập, tầng thấp nhất cũng chưa đạt được. Chúng ta nhất định phải đạt được thanh tịnh th́ mới thật sự được thọ dụng trong Phật pháp. Sự thọ dụng ấy đúng là “sự hưởng thụ cao nhất trong đời người” như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói vào thuở trước. Đối với sự hưởng thụ cao nhất, trong Phật pháp, câu đầu tiên là Ĺa Khổ Được Vui. Chuyện này chẳng dính dáng ǵ đến địa vị xă hội, chẳng liên quan đến của cải, giàu sang. Nếu thật sự đạt được, quư vị sẽ vui sướng khôn sánh, mỗi ngày quư vị đều sống trong thế giới vui sướng, vô cùng hạnh phúc! Đó là ǵ? Do tâm thanh tịnh mà có, quư vị vốn có [sự vui sướng ấy], nó chẳng đến từ bên ngoài. Những ǵ t́m từ bên ngoài đều chẳng thật, lại c̣n có tác dụng phụ. [Chúng ta] phải t́m sự vui sướng từ nội tâm. Trong Luận Ngữ có ghi lại cảnh giới của Khổng lăo phu tử: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi thực tập, cũng chẳng vui sướng sao), chữ “duyệt” (悅) là hỷ duyệt (vui sướng), do đâu mà có? Từ học tập mà có. Học tập, chữ “tập” (習) nghĩa là ǵ? Những ǵ ta học đều có thể áp dụng, thực hành trong đời sống, trong công việc, trong lúc xử sự, đăi người, tiếp vật, những ǵ học xong đều có thể áp dụng, quư vị sẽ vui sướng. Sự vui sướng đó chẳng đến từ bên ngoài, mà từ trong tâm lộ ra, thật sự vui sướng! Phật pháp nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” lại càng cao hơn cảnh giới [của Khổng Tử]. Do vậy, trong phần trước đă nói “Phật quang phổ chiếu”, đó chính là tự tánh, đức quang của tự tánh chiếu trọn khắp. Câu thứ nh́ là “kỳ hương phổ huân” (hương ấy xông khắp), đó là tự tánh, toàn thể đều thuộc về tự tánh. Do đó, Quang chiếu trọn pháp giới hư không giới, Hương cũng trọn khắp pháp giới hư không giới; c̣n có hai thứ nữa là âm thanh và mùi vị vi diệu. Chúng sanh được thật sự tiếp xúc “giai tu Phật hạnh” (đều tu Phật hạnh). Phật nghĩa là Chánh Giác, thật sự giác ngộ, ngôn hạnh của Ngài chẳng mê hoặc, có thể hoàn toàn ǵn giữ [sự giác ngộ].
Câu kế tiếp là “kiến Bồ Đề thụ, chứng Vô Sanh Nhẫn” (thấy cây Bồ Đề, chứng Vô Sanh Nhẫn), đây là cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc, chẳng phải cây Bồ Đề trong cơi này. Nếu quư vị thấy cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc, liền có thể chứng Vô Sanh Nhẫn. Vô Sanh Nhẫn là ǵ? Trước hết hăy nói về chữ Nhẫn. Nhẫn (忍) nghĩa là đồng ư, chấp thuận, khẳng định. Nhẫn có ba nghĩa ấy. Vô Sanh là ǵ? Hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt. Trong Phật pháp, trong pháp Đại Thừa, người nào có thể chứng đắc [Vô Sanh]? Kinh giáo Đại Thừa nói Thất Địa Bồ Tát, Bát Địa Bồ Tát, và Cửu Địa Bồ Tát chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thất Địa Bồ Tát chứng đắc hạ phẩm, Bát Địa chứng đắc trung phẩm, Cửu Địa chứng đắc thượng phẩm. Lên cao hơn nữa là Tịch Diệt Nhẫn, tức là thành Phật. Thập Địa Bồ Tát chứng đắc hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Đẳng Giác chứng đắc trung phẩm, Diệu Giác chứng đắc thượng phẩm. Tầng cấp cao như vậy, chúng ta thử nghĩ cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc có tác dụng ǵ? Có tác dụng dạy học, tuyệt đối chẳng phải là tầm thường. Nơi cây Bồ Đề, bất cứ điều ǵ quư vị cũng có thể thấy, giống như chúng ta xem TV, quư vị có thể thấy h́nh ảnh trong khắp mười phương thế giới. Đương nhiên những ǵ được hiển thị nhiều nhất nơi cây ấy cũng là thuận theo ư niệm của quư vị. Ta có thể thấy các Bồ Tát tu hành chứng quả trong mười phương, đem lại cho quư vị rất nhiều khải thị và ngộ xứ, nó có thể khởi lên tác dụng ấy. Nếu chẳng phải như vậy, tác dụng ấy do đâu mà có? Giống như tỳ-kheo Pháp Tạng theo thầy của Ngài là Tự Tại Vương Như Lai tham quan, khảo sát hết thảy cơi nước chư Phật, những cảnh giới ấy đều xuất hiện nơi cây Bồ Đề.
“Diệu hiển Cực Lạc thế giới nhất trần nhất mao tất giai viên minh cụ đức” (thế giới Cực Lạc hiển hiện đẹp đẽ, mỗi hạt bụi, mỗi sợi lông đều viên minh cụ đức). Mỗi hạt bụi, mỗi sợi lông là nói tới vật nhỏ nhất, y báo nhỏ nhất trong thế giới là một vi trần. “Vi trần” được nói trong kinh Phật thật ra là nguyên tử, lạp tử
(hạt cơ bản), điện tử như các nhà khoa học đă nói hiện thời. “Nhất mao” là sợi lông trên thân chúng ta, đó là chánh báo, chánh báo nhỏ nhất là đầu sợi lông này, đầu sợi lông rất nhỏ. “Nhất mao, nhất trần” là những vật nhỏ nhất trong chánh báo và y báo. Những vật nhỏ nhoi này đều trọn đủ “viên minh cụ đức”, “viên” là viên măn, “minh” là quang minh, “cụ” là đầy đủ, “đức” là đức năng. Đức ǵ? Thí dụ như đầu sợi lông rất nhỏ, nhưng có thể dung nạp toàn thể vũ trụ, quư vị có thể tin chuyện này hay không? Chẳng thể nào tưởng tượng được. Một hạt bụi, một điện tử cũng có thể dung nạp cả vũ trụ, “giới tử nạp Tu Di, Tu Di nạp giới tử” (hạt cải
dung
nạp
núi
Tu
Di,
núi
Tu
Di
dung
nạp
hạt
cải).
Vật lớn dung nạp vật nhỏ th́ chúng ta dễ hiểu; nhưng vật nhỏ có thể dung nạp vật lớn, chúng ta chẳng có cách nào chấp nhận, chẳng thể hiểu điều này, nhưng sự thật là như vậy. Nh́n vào khoa học hiện thời, quư vị thường dùng máy điện toán, dùng những con chip trong cell phone, đại khái [một con chip] chỉ lớn bằng móng tay, mà chứa đựng bao nhiêu dữ kiện trong ấy, có bao nhiêu thông tin trong ấy, đó cũng chỉ là những phát minh trong ṿng vài năm gần đây. Vẫn c̣n thua xa khi so với Phật pháp! Phật pháp nói trong một hạt nguyên tử, thậm chí một hạt quang tử, chứa đựng thông tin của toàn thể vũ trụ. Nếu so sánh hai việc này, quư vị sẽ thấy khoa học chẳng kỳ lạ, hiếm hoi ǵ, thua xa Phật pháp! Càng chẳng thể nghĩ bàn hơn nữa là thế giới chứa đựng trong một hạt vi trần lớn bằng thế giới bên ngoài, trong thế giới ấy lại có vi trần, trong hạt vi trần ấy lại có thế giới, trùng trùng vô tận! Khoa học chưa nói đến điều này, chưa phát hiện vấn đề này. Kinh Phật nói người nào có thể đi vào trong thế giới ấy để tham quan, t́m hiểu? Phổ Hiền Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm nói Phổ Hiền Bồ Tát có thể đi vào thế giới bên trong một vi trần. Vậy th́ chúng ta thử hỏi ai là Phổ Hiền Bồ Tát? Mỗi người văng sanh thế giới Cực Lạc đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Phẩm thứ hai của kinh này là phẩm Đức Tuân Phổ Hiền, kinh văn đă nói rơ ràng: Người trong thế giới “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tu theo đức của Phổ Hiền đại sĩ). Chúng ta biết Hoa Nghiêm là cảnh giới Phổ Hiền, Vô Lượng Thọ là cảnh giới viên măn rốt ráo của Phổ Hiền đại sĩ. Những chuyện này chúng ta có thể không học hay sao?
Do [những ǵ] được các khoa học gia quốc tế phát hiện trong hiện tại ngày càng gần với Đại Thừa Phật pháp, chúng tôi cũng nhắn nhủ các nhà khoa học ấy, bảo họ, hiện thời c̣n có một số vấn đề mà khoa học lẫn triết học đều chưa giải quyết được, [giải đáp của] những vấn đề ấy hoàn toàn nằm trong kinh điển Đại Thừa do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói từ ba ngàn năm trước. Những người nghiên cứu thế giới vĩ mô, khoa học hiện tại phát triển theo hai đối cực:
- Một nhóm nghiên cứu thế giới vĩ mô, quan sát vũ trụ, vũ trụ mênh mông. Họ dùng các dụng cụ khoa học tối tân nhất để quan sát vũ trụ. Họ kết luận: Chỉ thấy mười phần trăm vũ trụ, c̣n chín chục phần trăm vũ trụ họ chưa thấy được.
- Nhóm thứ nh́ nghiên cứu thế giới vi mô, tức là Lượng Tử Lực Học. Nay họ đă hiểu rơ ràng, rành rẽ vũ trụ do đâu mà có. Bản chất của vật chất là tinh thần, tinh thần do đâu mà có? Vật chất do tinh thần mà có, vậy th́ tinh thần do đâu mà có? Hiện thời họ đă tổng kết: “Vô trung sanh hữu” (Cái Có sanh từ cái Không), tinh thần sanh từ Không. Không làm sao sanh ra Có? Phật pháp đă sớm giải thích rơ ràng, minh bạch những vấn đề ấy. C̣n chín chục phần trăm kia của vũ trụ sẽ đi về đâu? Trở về tự tánh, trở về Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. V́ thế, quư vị chẳng thể nào thăm ḍ, trắc lường được.
[Những người nghiên cứu] thế giới vi mô nói tới sự khởi nguyên của vũ trụ, khởi nguyên của các hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần và hiện tượng tự nhiên do đâu mà có? Phật pháp bảo “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, “một niệm bất giác, nên có vô minh”. Niệm thứ nhất bất giác, nên gọi là vô minh. Một niệm chẳng có nguyên nhân, chẳng có lư do, nhưng niệm thứ nh́ sẽ có nguyên nhân: Niệm thứ nhất là nhân, niệm thứ hai là quả. Niệm thứ nhất chẳng có nguyên do, bèn gọi là Vô Thỉ Vô Minh. Vô Thỉ Vô Minh là ǵ? Chẳng có khởi đầu! Chẳng có khởi đầu là ǵ? Chẳng có quá khứ, chẳng có tương lai, chẳng có khoảng cách, vấn đề ở ngay trong lúc đó. Các khoa học gia chẳng nói điều này. Do vậy, chúng tôi có lư do để tin tưởng rằng hai ba chục năm sau, Phật giáo sẽ chẳng phải là tôn giáo nữa. Phật giáo là khoa học cao cấp nhất trên thế giới này, chẳng phải là tôn giáo nữa. Các khoa học gia phải [nghiên cứu] Đại Thừa sâu hơn th́ mới có thể thật sự giải quyết những vấn đề nan giải trên quả địa cầu này.
Quư vị nói tai nạn đang bày trước mắt, mọi người đều rất lo lắng, [một trong các lời dự đoán tai nạn năm] 2012 là do người Mỹ đề xướng. Trong các khoa học gia trên thế giới hiện nay, có phân nửa tin là tai nạn có thể xảy ra, c̣n phân nửa kia th́ nói chẳng thể. Rốt cuộc th́ chuyện này là thật hay giả? Vậy th́ phải đến năm 2012 sẽ biết, sẽ rơ. Nhưng các khoa học gia đă đưa ra một cách giải thích gồm ba câu rất đơn giản, đó là kết luận của một người Mỹ. Ông Bố Lai Đăng[1] là một khoa học gia Mỹ, khi nhận định về lời tiên đoán tai nạn 2012, đă phủ nhận chuyện ấy. Ông nói rất thú vị, cho rằng năm 2012 là cơ hội để toàn thể nhân loại bỏ ác, đề cao điều thiện, cải tà quy chánh, hết thảy mọi người hăy nên đoan chánh tâm niệm, hướng dẫn thế giới đạt đến chỗ tốt đẹp hơn. Trong câu này chỉ có mười hai chữ, quan trọng nhất là “bỏ ác hướng thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm”, [làm được mười hai chữ trên đây th́] sẽ có thể giải quyết vấn đề này. Cách nói ấy rất giống với cách nói trong Phật pháp. Phật pháp bảo: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Nếu chúng ta buông bỏ hết thảy những ư niệm không chánh đáng, những ư niệm sai lầm, quay về giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả và tôn giáo th́ vấn đề sẽ được giải quyết. Tại sao vậy? Tai nạn là do những ư niệm bất chánh cảm vời. Thủy tai là do tham lam, tâm tham là nước. Bất luận là tham điều ǵ, chỉ cần quư vị có tâm tham th́ sẽ có thủy tai (nạn lụt) xảy ra. Sân khuể là hỏa tai, núi lửa bùng nổ, nhiệt độ địa cầu tăng lên, đều thuộc về hỏa, v́ [con người] nổi nóng. Ngu si là phong tai, [tức là] ngu si sẽ chiêu cảm nạn gió. Ngạo mạn bất b́nh đẳng chiêu cảm động đất. Do đó, đức Phật dạy: “Siêng tu Giới, Định, Huệ, diệt trừ tham, sân, si” th́ tai nạn ǵ cũng chẳng xảy ra. Bản thân quư vị sẽ được thân tâm khỏe mạnh, trăm bệnh chẳng sanh. Người ta thường nói bệnh chẳng thuộc về Hàn, bèn thuộc Nhiệt. Hàn là ǵ? Là tâm tham. Nhiệt là ǵ? Là tâm sân hận, hai thứ ấy là nguyên nhân sanh ra bệnh tật. Tâm quư vị chẳng có tham niệm, chẳng có sân niệm th́ quư vị sẽ chẳng bị bệnh. Từ cá nhân đạt được thân thể khoẻ mạnh, cho đến gia đ́nh hạnh phúc mỹ măn, xă hội hài ḥa, thiên hạ thái b́nh, tai nạn trên địa cầu hoàn toàn được hóa giải, tất cả đều từ một đạo lư, đều từ tâm niệm của mỗi người chúng ta.
Như vậy th́ điều ǵ là
quan trọng? Giáo học quan trọng! Cổ thánh tiên
hiền, đại thánh đại hiền đều theo đuổi công việc giáo học. Thích Ca Mâu Ni Phật rất phi phàm, xuất thân là hoàng tử. Nếu không xuất gia, Ngài sẽ là quốc vương, nhưng Ngài vứt bỏ ngôi vua,
sống cuộc đời khổ hạnh của một vị Tăng, v́ sao? V́ trong đó có Lạc. Phật pháp dạy chúng ta ĺa khổ được vui.
Nếu chẳng có Vui, ai chịu theo? Quư vị xem nhé, Ngài bắt đầu dạy học từ lúc ba mươi tuổi, đến bảy mươi chín tuổi bèn viên tịch, dạy học suốt bốn mươi chín năm, chưa từng nghỉ một ngày nào, mỗi ngày đều vui thích, chẳng chán ngán. Học tṛ của Ngài kết tập [lời Phật dạy] thành kinh điển nhiều ngần ấy, khiến cho bọn hậu học chúng ta thông hiểu ư Ngài, thông hiểu ư nghĩa kinh điển. Nếu quư vị chẳng học theo cách của Ngài, sẽ chẳng hiểu ư ấy. Cách của Ngài là ǵ? Chính là buông xuống, buông xuống hết thảy thân tâm thế giới. Nói theo cách hiện thời, Ngài chẳng bị áp lực (stress) chút nào, bất luận là xét
theo phương diện tinh thần hay vật chất, Ngài chẳng có mảy may áp lực
ǵ! Những ǵ Ngài đă nói và dạy chúng ta, chính Ngài đều làm được, thánh nhân là như vậy đó! Người Ấn Độ gọi là Phật Đà, chúng ta gọi là Thánh Nhân, Phật Đà có nghĩa là Thánh Nhân. Bồ Tát nghĩa là Hiền Nhân, A La Hán nghĩa là Quân Tử. Người Trung Quốc gọi là Thánh, Hiền, Quân Tử, c̣n Ấn Độ gọi là Phật Đà, Bồ Tát, A La Hán. Các Ngài chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên. Thần tiên thuộc về thiên đạo hay quỷ đạo; c̣n Phật, Bồ Tát thuộc về nhân đạo, chẳng khác ǵ chúng ta. Nói
theo cách hiện thời, th́ các Ngài đích thực là triết học gia hay khoa học gia vĩ đại nhất trên thế gian.
V́ sao các nhà khoa học thuở trước chẳng phát minh, sáng tạo những thứ khoa học kỹ thuật giống như các nhà khoa học hiện thời cho chúng ta sử dụng? Tại sao vậy? Ở đây, có một đạo lư rất đơn giản: Nếu khoa học kỹ thuật vượt trội luân lư đạo đức sẽ đem đến tai nạn cho nhân loại. Thế giới này có thể bị hủy diệt hay không? Có thể lắm! Khả năng duy nhất là chiến tranh nguyên tử; đối với bom nguyên tử hiện thời, chỉ cần một quả bom đă có thể hủy diệt cả thành phố. Từ mạng Internet, chúng ta thấy có những tin tức cho biết vào năm 2012, người Mỹ chuẩn bị thiết kế hệ thống hỏa tiễn mới, các hỏa tiễn ấy có thể bắn tới bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra,
có cần dùng lục quân, hải quân, không quân hay chăng? Chẳng cần. Ngồi trong nhà bấm nút có thể hủy diệt cả thành phố, cả quốc gia. Đó là tác dụng phụ của khoa học, lúc chẳng có chiến tranh th́ đem lại nỗi lo sợ, lúc có chiến tranh bèn
đem lại sự hủy diệt. Do đó, Phật, Bồ Tát không làm những chuyện ấy, chẳng phát triển theo phương hướng ấy, thánh hiền Trung Quốc cũng chẳng phát triển theo hướng ấy. Những thứ như kim chỉ nam và thuốc súng đều do người Trung Quốc phát minh đầu tiên, nhưng người Trung Quốc dùng những thứ ấy để tạo niềm vui, chẳng dùng trong chiến tranh. Gia Cát Lượng phát minh ḅ ngựa gỗ để cơ giới hóa sự vận chuyển. Lúc ông mất bèn hủy diệt những kỹ thuật ấy, không lưu lại cho đời sau, chẳng phải là ích kỷ, mà là từ bi, nhân ái. Đây là sự khác biệt giữa nền giáo dục phương Đông và phương Tây. Người phương Đông chú trọng nhân đạo, người phương Tây chú trọng lợi ích bất kể phương tiện. Từ hai ngàn năm trăm năm trước, Mạnh Tử đă nói đến chuyện chú trọng đạt lợi ích bất kể phương tiện. Lúc Mạnh Tử gặp Lương Huệ Vương, Mạnh Tử sanh nhằm thời Chiến Quốc cũng là thời đại động loạn nhiễu nhương. Lương Huệ Vương tiếp đón Ngài, câu đầu tiên bèn hỏi: “Ông tới nước ta sẽ đem lại lợi ích ǵ?” Mạnh Tử đáp: “Vương hà tất viết
lợi, diệc
hữu nhân nghĩa nhi dĩ hỹ” (vua cần ǵ phải nói tới lợi ích, chỉ có nhân nghĩa là được rồi). Nếu mọi người đều tranh lợi, nước ấy sẽ tan vỡ, “thượng hạ giao chinh lợi, kỳ quốc nguy hỹ” (trên dưới đều tranh lợi, nước đó sẽ lâm nguy), chẳng cần người khác đến đánh, chính quư vị sẽ tự diệt vong. Lợi là vật mà người ta cần thiết, chẳng thể thiếu, nhưng vừa phải là được rồi, chớ nên thái quá, chớ nên tranh giành!
Thế giới “đại đồng” chẳng phải là chuyện lư tưởng. Ở Trung Quốc đă từng thực hiện. Quư vị đọc lịch sử Trung Quốc, [sẽ thấy] ba đời Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ là cơi
đời đại đồng. Sau khi vua Vũ chết đi, truyền ngôi cho con là Vương Khải, đây là nhà Hạ. Kể từ Vương Khải trở đi là Tiểu Khang[2], th́ chẳng thể gọi là Đại Đồng nữa. Trong thời Đại Đồng, những người lănh đạo quốc gia luôn nghĩ tới dân chúng, chẳng nghĩ cho chính ḿnh. Nơi vua sống giống như nhà của b́nh dân,
nên gọi là “ty cung thất” (cung điện thấp hèn); chẳng chú trọng ăn uống ngon lành, nghĩa là sao?
Ăn chỉ một món, chẳng bày đầy một bàn! Họ thường nghĩ đời sống như vậy tốt đẹp lắm rồi, c̣n có nhiều kẻ chẳng có cơm để ăn nữa kia! Có người c̣n chẳng có ǵ nữa? Chẳng có quần áo để mặc! Niệm niệm đều nghĩ tới những chuyện ấy. Có đọc cổ thư Trung Quốc, quư vị mới hiểu rơ Trung Quốc, mới nhận biết tổ tiên của dân Trung Hoa là như thế nào.
Người ta gọi họ là “cổ thánh tiên vương” chẳng phải là nịnh hót, mà là sự thật. “Thánh” có nghĩa là giác ngộ, hiểu rơ, chẳng phải là kẻ hồ đồ. Họ có đức hạnh, có học vấn, niệm niệm đều mưu cầu phúc lợi cho dân, đó là thánh nhân, chắc chắn chẳng có mảy may tự tư tự lợi. Tự ḿnh cai trị rất tốt đẹp, hy vọng kẻ nối ngôi càng làm tốt hơn nữa. Họ tuyển chọn kẻ kế vị, phàm nhân chưa chắc nhận biết ai, chỉ có thánh nhân mới nhận biết thánh nhân. Do
đó, nhiều đời, nhiều triều đại đều giữ được sự hưng vượng dường ấy, xă hội ḥa hài, nhân dân thật sự có hạnh phúc.
Đối với
xă hội giống
như
ngày nay, cổ
thánh
tiên
vương
thuở xưa
dùng
phương
pháp
ǵ?
Chẳng
có
ǵ
khác,
dùng
Giáo
Học.
Phật pháp
th́
sao?
Phật pháp
cũng
là
Giáo
Học.
Khi gặp tai
nạn,
người
nhà Phật đều
biết,
chúng
ta
tổ chức pháp
hội
Nhân
Vương
Hộ
Quốc,
làm
pháp
hội
này
ḥng tiêu
tai
miễn
nạn.
Pháp hội Nhân
Vương
Hộ
Quốc
hiện
nay
đă
bị biến
chất,
[cứ
tưởng]
kinh
nói
“t́m
một
trăm
người
xuất
gia
hợp
lại
tụng
kinh
Nhân
Vương”
là
được
rồi.
Chẳng có
ư
nghĩa
như
vậy.
Từ
ngữ
“một
trăm”
chẳng
phải
là
con số, mà
nhằm
tiêu biểu pháp.
“Một trăm”
là
những
người
xuất
gia
trên
cả
nước,
tức
là [toàn
thể]
Phật giáo.
Thích Ca Mâu
Ni
Phật
kêu
gọi
hết
thảy
các đệ
tử
phải
thực
hiện
giáo
dục
luân
lư,
đạo
đức,
giới
luật,
nhân
quả,
giúp
đỡ
quốc
gia
giáo
hóa
chúng
sanh,
có
ư
nghĩa
như
vậy,
quư
vị
chớ nên
hiểu
sai!
Phải giảng
chuyện này
cho
rơ
ràng,
rành
rẽ!
Chính
ḿnh
lại
c̣n
phải
làm
mẫu,
nêu gương cho
người
khác
nh́n
theo,
làm
theo
cách như vậy
th́ mới
giúp
quốc
gia
giải
quyết
tai
nạn
được.
Hiện thời
đă
hoàn
toàn
sai
lầm!
V́
lẽ
đó,
dẫu
niệm
kinh
Nhân Vương bao
nhiêu
lần
cũng
chẳng
giúp được ǵ.
Nếu
quư
vị
chẳng thể
buông
xuống
tham, sân, si,
mạn,
có
ích
ǵ
đâu?
Khuyên người khác
buông
xuống
th́
chính
ḿnh
phải
dẫn
đầu.
Do vậy,
quư
vị
chẳng thể
không
nỗ
lực
học
tập
kinh
điển.
Nếu
quư
vị
thật
sự
hiểu
rơ
th́
những
lời
dạy
trong
kinh
điển
mới có
ư
nghĩa,
thật
sự
có
thể
giúp
chúng
ta
giải
quyết
vấn
đề.
Từ vấn đề
cá
nhân
của
quư
vị
cho
đến
vấn
đề
của
quốc
gia,
cho đến
vấn
đề
thế
giới,
cho đến
vấn
đề
trong cả
vũ
trụ,
hết
thảy
đều
có
thể
giải
quyết,
quư
vị
nghĩ
xem, vui
sướng
biết
bao!
Thật đấy,
chẳng
giả,
một hạt bụi, một sợi lông đều trọn đủ viên minh cụ đức.
“Thị dĩ, thử tứ cú liệt ư nguyện đầu” (V́ vậy, bốn câu này được đặt ở đầu lời nguyện), bốn câu kinh văn này được đặt ở phần đầu [các lời nguyện], “biểu dĩ hạ nhất nhất các nguyện, mạc bất như thị” (biểu thị: Không nguyện nào trong các nguyện sẽ được tŕnh bày dưới đây lại chẳng giống như vậy). Điều này vô cùng quan trọng; phần sau là bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng có đủ các ư nghĩa trong bốn câu ấy. Bốn câu ấy chính là như kinh văn đă nói: “Ngă nhược chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác dĩ” (Nếu tôi chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác xong), nói rơ Ngài đă làm được, “sở cư Phật sát, cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm” (ở trong cơi nước đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn), tiếp đó là nguyện văn của mỗi lời nguyện. Chúng ta phải dùng cách này để học bốn mươi tám nguyện th́ mới thật sự hiểu rơ được các nguyện ấy chẳng thể nghĩ bàn. “Nhất nhất chi nguyện giai thị vị chúng sanh, nhất nhất chi nguyện giai thị Di Đà bổn diệu minh tâm chi hiển hiện, nhất nhất chi sự tướng giai thị thanh tịnh cú, giai thị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân” (mỗi nguyện đều v́ chúng sanh, mỗi nguyện đều hiển hiện bổn tâm diệu minh của Phật Di Đà, mỗi sự tướng đều là câu thanh tịnh, đều là “chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân”). Nói cách khác, mỗi chữ, mỗi câu đều là ba thứ chân thật, từ ngữ Chân Thật Chi Tế chỉ bản tánh của chúng ta. Trong Tam Tự Kinh có câu: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người
ban
sơ,
tánh
vốn
lành),
tổ
tiên
Trung
Quốc
nói
“bản tánh vốn thiện”, Phật nói càng hay hơn nữa: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Hai
câu
ấy
có
ư
nghĩa
hoàn toàn giống nhau. Nói tới thiện, điều thiện rốt ráo viên măn chẳng có ǵ hơn Phật, do đó “bản tánh vốn thiện” chính là “vốn là Phật”, có cùng một ư nghĩa. Ngày nay chúng ta bất thiện, bất thiện là tập tánh, bản tánh vốn thiện, tập tánh không thiện, tập tánh là tập quán. Người xưa nói “gần mực th́ đen, gần son th́ đỏ”, điều này có quan hệ rất lớn với giáo dục. Quư vị theo thánh nhân, quân tử, tự nhiên sẽ biến thành thánh nhân, quân tử. Quư vị theo một nhóm tiểu nhân, cũng sẽ không hay không biết trở thành tiểu nhân. Quư vị bị hoàn cảnh ô nhiễm, là đạo lư như vậy đó! Mục đích của việc đề cao giáo dục là ǵ? Mục đích nhằm dạy quư vị vĩnh viễn giữ được tánh bổn thiện và rời khỏi sự bất thiện, đó là giáo dục. Toàn thể thế giới hiện thời chẳng có giáo dục nữa, giáo dục trên toàn thế giới từ lớp tuổi nhà trẻ cho tới lớp nghiên cứu sinh đều là truyền dạy kỹ thuật, chẳng nói tới đạo làm người, chẳng dạy làm người. Giáo dục thời cổ ở Trung Quốc là dạy luân lư, luân lư là dạy về quan hệ giữa người với người, nghĩa vụ của người với người, nói tới Ngũ Thường, nói tới Tứ Duy, Bát Đức. Đó là nền giáo dục của người Trung Quốc.
Tôi tin giáo dục truyền thống của Trung Quốc chẳng thua người Ấn Độ. Người Ấn Độ nói họ có truyền thống hơn một vạn năm, tôi tin đúng là như vậy. Giáo dục của người Trung Quốc tối thiểu cũng lâu hơn một vạn năm, v́ [nếu kể cả khoảng thời gian] văn tự chưa được phát minh, văn tự được phát minh vào đời Hoàng Đế, kể từ lúc có văn tự ghi chép cho đến ngày nay là khoảng bốn ngàn năm trăm năm. Trước đời Hoàng Đế có Thần Nông Thị, tức Viêm Đế. Trước đó là Phục Hy, từ Phục Hy đến Hoàng Đế là một ngàn năm. Trong một ngàn năm ấy, tôi tin tưởng văn hóa cổ Trung Quốc đă được thành lập, nhưng chưa có văn tự để ghi chép, chỉ truyền khẩu. Đến thời Khổng Tử, cổ nhân dùng văn tự ghi chép những lời truyền thuật của cổ nhân và cổ thánh tiên hiền ḥng truyền cho đời sau, đó gọi là Tập Đại Thành. Khổng Phu Tử vô cùng thành thật, Ngài nói cả đời Ngài chỉ “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (chỉ thuật lại chứ không sáng tác, tin tưởng và ưa thích những thứ cổ nhân để lại). Hai câu này nghĩa là ǵ? Nói theo cách hiện thời, nghĩa là suốt đời Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, Ngài là người thật thà. “Tín nhi hiếu cổ” nghĩa là Ngài tin tưởng những ǵ cổ thánh tiên hiền truyền lại, Ngài yêu thích, ưa chuộng. Nói cách khác, những ǵ Khổng Tử đă học, đă tu, đă dạy cả đời toàn là những thứ của cổ thánh tiên hiền, lăo nhân gia đă nêu gương tốt cho chúng ta. Trước thời Khổng Tử, tôi tin tưởng không chỉ là hai ngàn năm trăm năm, người Trung Quốc nói “năm ngàn năm lịch sử”, Khổng Tử thuộc vào khoảng giữa, tính đến nay là khoảng hai ngàn năm trăm năm. Kể từ đời Khổng Tử trở về trước hai ngàn năm trăm năm là thời Phục Hy, chắc chắn [văn hóa truyền thống Trung Hoa] không phải chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
Những thứ cổ thánh tiên hiền truyền lại nhất định là rất đơn giản, dễ ghi nhớ, nên chẳng bị lưu truyền sai lạc. Thí dụ như Ngũ Luân, Ngũ Luân chỉ có hai mươi chữ, tôi tin tưởng dẫu truyền mười vạn năm cũng chẳng bị truyền sai. Tôi truyền cho quư vị, quư vị truyền cho người khác, chỉ truyền năm câu sau đây: “Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín” (Cha
con
có
t́nh
thân,
vua
tôi
có
nghĩa,
vợ
chồng
có
khác
biệt,
lớn
nhỏ
có
thứ
tự,
bạn
bè
có
chữ
tín). Quư vị nghĩ xem: Truyền mười vạn năm có thể truyền sai hay không? Chẳng thể nào! Người ta nhớ được! Phần sau càng đơn giản hơn nữa, Ngũ Thường chỉ có năm chữ “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, đây là tiêu chuẩn làm người. “Thường” có nghĩa là vĩnh hằng chẳng biến đổi, là tiêu chuẩn của con người. Nếu con người chẳng có Ngũ Thường, sẽ chẳng khác ǵ súc sanh. “Nhân giả ái nhân” (người
có
ḷng
nhân
yêu
thương
con
người) là điều thứ nhất, trong Phật pháp nói là “không sát sanh”. Thứ hai là Nghĩa, “Nghĩa giả tuần lư” (Nghĩa
là
noi
theo
lư), nghĩa là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác phải hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, đó là Nghĩa. “Lễ” có nghĩa là lễ tiết, vô cùng quan trọng. Chẳng thể nói mỗi ngày đều gặp nhau bèn có thể buông tuồng đôi chút. Hễ buông tuồng, sẽ xảy ra vấn đề. Nhất định là phải cẩn thận, lễ tiết nhỏ nhoi cũng phải ghi nhớ, phải làm được, giống như sách Đệ Tử Quy đă dạy, phải thực hiện những lời dạy ấy trong đời sống. Lễ tiết, “Lễ” có nghĩa là có chừng mực, không quá đáng, mà cũng chẳng thể thiếu sót. Lễ nghĩa quá đáng th́ có vẻ giống như nịnh hót. Lễ nghĩa không đủ th́ có vẻ ngạo mạn, nhất định là phải giữ lễ đủ mức. V́ thế, nói là “dụng Trung”, Trung tức là Lễ. Nói “giữ Lễ đúng mực” chính là “dụng Trung”. Quư vị thấy điện Tứ Thiên Vương trong nhà Phật, vị thứ nhất trong bốn vị Thiên Vương là Tŕ Quốc Thiên Vương tiêu biểu ư nghĩa Dụng Trung. Tŕ Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà. Tỳ bà là đàn dây, có ư nghĩa ǵ? Dây đàn chùng quá sẽ không kêu, căng quá dễ đứt, nhất định phải lên dây vừa mức. Vừa mức là tốt, sẽ phát ra âm thanh rất hay. Vừa mức nghĩa là Lễ, do vậy, Lễ rất quan trọng. Nếu chẳng có Lễ, Nho Giáo sẽ không c̣n nữa. Chẳng có Giới, Phật giáo không c̣n nữa. Nếu người khác chẳng có [Lễ], chúng ta tự làm đúng Lễ là được rồi, đừng quan tâm người khác [có giữ Lễ hay không]. Hết thảy đều yêu cầu chính ḿnh, đừng đ̣i hỏi kẻ khác! Chúng ta tự ḿnh nỗ lực học tập là được rồi, sẽ có thọ dụng. [Điều thứ tư là] Trí, Trí là lư trí, chớ nên sử dụng cảm t́nh. Điều cuối cùng là Tín, con người phải có tín nhiệm. Quư vị thấy đó, tôi tin là tối thiểu cũng phải hơn một vạn năm về trước, tổ tiên đă truyền lại năm chữ “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” dạy về đạo làm người, chẳng thể ĺa khỏi [năm chữ ấy], đó là đạo. “Đạo dă giả, bất khả tu du ly dă” (Đạo là những ǵ chẳng thể ĺa khỏi dù trong chốc lát), một phút, một giây cũng chẳng thể ĺa khỏi, phải giữ chặt mấy chữ ấy. Trong Phật pháp, những điều đó chính là Ngũ Giới, trong truyền thống Trung Quốc bèn là Ngũ Thường. Tứ Duy là bốn chữ “Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ”. Bát Đức là “Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Nhân, Ái, Ḥa, B́nh”. Đó là những thứ thuộc về truyền thống Trung Quốc, quư vị phải dạy những thứ này cho kẻ khác ḥng đời đời truyền thừa. Tôi tin tưởng dẫu truyền mười vạn năm cũng chẳng truyền sai, những thứ ấy rất đơn giản, dễ dàng. Nếu tôi hoàn toàn làm trọn hết, tôi sẽ là thánh hiền, quân tử. Làm trọn hết, chẳng vi phạm điều nào, bèn là thánh nhân. Nếu c̣n có chút lỗi lầm, “quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (nếu
sai
mà
có
thể
sửa,
chẳng
ǵ
tốt
lành
to
tát
hơn),
đó là hiền nhân. Kém hơn nữa là quân tử. Đó là tiêu chuẩn [trong đạo làm người] của người Trung Quốc. Tiêu chuẩn của Phật pháp là ǵ? V́ Phật pháp là triết học cao cấp, khoa học cao cấp, vượt trỗi lục đạo, vượt trỗi mười pháp giới, thậm chí vượt khỏi cả vũ trụ, là một môn học vấn to lớn, phi thường. Nếu quư vị thật sự phát hiện, sẽ vui thích chẳng chán. Do vậy, nhà Phật nói đến Bảo th́ kinh điển được gọi là Pháp Bảo, kinh điển là món quư báu thật sự, chẳng có ǵ trong thế gian có thể sánh bằng! Đúng là của báu. Do đó, ở đây nói rất rơ ràng: Mỗi một nguyện đều v́ chúng sanh, chẳng có nguyện nào v́ chính ḿnh, tại sao vậy? Chính ḿnh và chúng sanh đều có cùng một Thể, đó chính là luân lư được nói trong Phật giáo. Luân lư là nói về quan hệ, Nho gia chẳng giảng cao như vậy, chỉ có Phật pháp nói toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một Thể. Lăo Tử cũng có nói, nhưng chẳng nói kỹ. Lăo Tử chỉ nói: “Thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể” (trời đất và ta có cùng một cội rễ, vạn vật và ta cùng một Thể), chẳng nói cặn kẽ hơn. Đức Phật nói tỉ mỉ hơn, thấu triệt hơn, tại sao lại là một Thể, tại sao có cùng một cội rễ, tất cả đều nói cho quư vị biết.
Câu kế tiếp [cho biết] mỗi một nguyện, nói thật ra, mỗi một nguyện, mỗi một hạnh, mỗi một sự, mỗi một quả báo “giai thị A Di Đà Phật bổn diệu minh tâm chi hiển hiện” (đều do bổn diệu minh tâm của A Di Đà Phật hiển hiện), do tâm của A Di Đà Phật hiện, mà cũng do tâm của chính chúng ta hiện. Nếu tâm chúng ta không hiện, tâm A Di Đà Phật cũng chẳng hiện, cùng một đạo lư! “Nhất nhất sự tướng, giai thị thanh tịnh cú” (mỗi một sự tướng đều là câu thanh tịnh), câu thanh tịnh là “giai thị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân” (đều
là
Pháp
Thân
chân
thật
trí
huệ
vô
vi). “Chân thật trí huệ” là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, giống như Huệ Năng đại sư lúc minh tâm kiến tánh đă nói ra cảnh giới của Ngài, chỉ dùng hai mươi chữ: “Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh, bổn bất sanh diệt” (nào
ngờ
tự
tánh
vốn
tự
thanh
tịnh,
vốn
chẳng
sanh
diệt),
chẳng có sanh diệt, “bổn tự cụ túc” (vốn
tự
đầy
đủ), trong đó có câu này, đầy đủ ǵ? Đầy đủ trí huệ, đầy đủ đức năng, đầy đủ tướng hảo, vốn sẵn đầy đủ. Câu thứ tư là “bổn vô động dao” (vốn chẳng dao động), đó là tự tánh vốn định. Câu cuối cùng là “năng sanh vạn pháp” (có thể sanh vạn pháp). Do đó, hết thảy vạn pháp được sanh bởi tự tánh, đều do tự tánh hiện ra. Tự tánh là bản thể của hết thảy vạn pháp, hết thảy đều sanh ra từ đó. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dùng biển cả làm tỷ dụ. Biển cả ví như tự tánh, bọt nước trong biển cả ví như chúng sanh. Từng bọt nước trồi trên mặt biển ngỡ ḿnh là độc lập, chẳng biết [đến biển cả]. Lúc bọt nước vỡ tan, mới biết [chính ḿnh và] biển cả vốn là một. Đức Phật dùng tỷ dụ này nhằm bảo chúng ta: Tất cả hết thảy chúng sanh và chính ḿnh có cùng một Thể. Do vậy, thương chúng sanh chính là thương ḿnh, quan tâm chúng sanh chính là quan tâm chính ḿnh, giúp đỡ chúng sanh chính là giúp đỡ chính ḿnh, tự và tha chẳng hai. Quư vị phải làm như vậy th́ mới minh tâm kiến tánh, mới có thể hiểu chân tướng sự thật. Chúng tôi chỉ nói ư nghĩa tổng quát của bốn câu này tới đây thôi. Tiếp theo đây sẽ nói về bốn mươi tám nguyện. [Theo cách Khoa Phán, bốn mươi tám nguyện] được gọi Biệt Đề, c̣n gọi là “tế mục” (các đề mục vi tế). Trong phần này có bốn mươi tám điều. Nguyện thứ nhất là:
(Kinh) Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại.
(經) 無 有 地 獄、餓 鬼、禽 獸、蜎 飛 蠕 動 之 類。
(Chánh kinh: Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn).
Đây là nguyện “cơi nước không có ác đạo”. Chúng ta thấy kinh Hoa Nghiêm có hai phẩm, một phẩm là Hoa Tạng Thế Giới Phẩm giảng về vũ trụ, nói rơ [đặc điểm của] thế giới này trong vũ trụ, nay chúng ta gọi [thế giới] là tinh cầu, [trong không gian có] vô lượng vô biên hệ tinh cầu. Phẩm thứ nh́ là Thế Giới Thành Tựu Phẩm, cho biết những thế giới ấy từ đâu mà có. Trước hết, bảo quư vị hăy nh́n, sau đó giảng giải cho quư vị biết vũ trụ do đâu mà có. Từ vũ trụ, quư vị phát hiện: Trong phần lớn các thế giới đều có lục đạo luân hồi. Có thế giới nào chẳng có lục đạo hay không? Có chứ! Số lượng cũng khá nhiều, các thế giới chẳng có lục đạo đều là thế giới thanh tịnh, trong các thế giới đó, chẳng có kẻ tạo ác. Có một số thế giới giống hệt thế giới Cực Lạc, chỉ có cơi Thật Báo, chẳng có mười pháp giới, chúng ta có thể gọi chúng là thuần tịnh độ. Thế giới Cực Lạc rất kỳ lạ, rất đặc biệt, là thuần tịnh độ, nhưng trong đó có người và trời; trong mười pháp giới, chẳng có ba ác đạo. Nói cách khác, trong mười pháp giới, thế giới Cực Lạc chẳng có ba cơi ác, bảy cơi c̣n lại đều có. Tuy có bảy pháp giới, nhưng thế giới Cực Lạc là cơi thuần tịnh, rất chẳng thể nghĩ bàn. Đây là điểm đặc biệt của thế giới Cực Lạc, khác hẳn những cơi Phật khác, đó cũng là nguyên nhân khiến cho hết thảy chư Phật đều tán thán. Chúng ta biết ba đường ác do đâu mà có, chúng ta phải hiểu việc này, chẳng có nhân th́ sẽ chẳng có quả, chúng ta phải hiểu như thế.
Chúng ta coi đoạn kế tiếp [trong lời Chú Giải], “hạ minh, ngă thử Phật sát trung, vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh” (Đoạn kế tiếp nói rơ: Trong nước của tôi chẳng có ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Tiếp đó là một đoạn ghi chú về súc sanh, “kinh trung thường dĩ cầm thú quyên phi nhuyễn động chi loại biểu súc sanh đạo” (trong kinh thường dùng “cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn” để biểu thị súc sanh). Hôm nay, ở đây, chúng tôi nói rơ hơn, ba ác đạo ấy do đâu mà có. Hăy nhớ trong kinh đă có một câu giảng rơ cương lănh và nguyên tắc chung, tuyệt đối đừng quên câu ấy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Hiện nay, các nhà khoa học đă thừa nhận hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Nói cách khác, tam ác đạo do chính chúng ta suy tưởng ra. Quư vị “tưởng” th́ nó sẽ biến đổi, cảnh giới bèn thay đổi. Địa ngục do đâu mà có? Địa ngục sanh từ tâm sân khuể, đố kỵ. Đương nhiên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng trong vô lượng nhân duyên, chắc chắn phải có một nhân duyên chánh yếu, đức Phật đă chỉ ra nhân duyên chánh yếu ấy, đó là sân khuể, đố kỵ. Từ tâm sân khuể, đố kỵ, sẽ dẫn tới rất nhiều hành vi, hành động bất thiện, thậm chí dẫn tới chiến tranh, độc hại, tội nghiệp rất nặng!
Trong Phật pháp, kinh điển thường nói nghiệp nhân của địa ngục là Ngũ Nghịch, Thập Ác. Trong tội Ngũ Nghịch, thứ nhất là “giết cha”, thứ nh́ là “giết mẹ”. Ân đức của cha mẹ quá lớn, cha mẹ sanh ra quư vị, nuôi dưỡng quư vị, mà quư vị không biết hiếu thuận, chẳng biết báo ân! Nếu quư vị giết hại cha mẹ, chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Thứ ba là “giết A La Hán”. Nói thật ra, A La Hán ở đâu quư vị chẳng t́m thấy. A La Hán tiêu biểu ǵ? Tiêu biểu thầy. V́ nói thật ra, A La Hán, Bồ Tát, Phật đều là thầy, các Ngài đến thế gian này để giáo hóa chúng sanh, làm công việc giáo học. Nếu quư vị giết một vị thầy tốt th́ cũng như quư vị giết A La Hán, tội ấy sẽ đọa địa ngục. Thứ tư là “làm cho thân Phật chảy máu”. Trí huệ và phước báo của Phật đều viên măn, nên có kẻ nào muốn giết Phật cũng chẳng thể giết được, đức Phật có thần hộ pháp theo hộ tŕ. Đây là nói đến chuyện Đề Bà Đạt Đa muốn giết hại Thích Ca Mâu Ni Phật. Ông ta biết đức Phật mỗi ngày đi khất thực thường đi ngang một sườn núi, phải đi dưới sườn núi, nên núp trên núi và đặt sẵn một tảng đá lớn, toan tính lúc đức Phật đi ngang, sẽ đẩy tảng đá xuống đè chết đức Phật, có câu chuyện như vậy. Nhưng lúc ông ta đẩy đá xuống, thần hộ pháp là Vi Đà Bồ Tát dùng chày Kim Cang đỡ tảng đá ấy, đánh tan nó, một mảnh vụn rơi trúng chân đức Phật khiến cho chân Ngài chảy máu. Có chuyện như vậy, nên gọi là “làm cho thân Phật chảy máu”, tức là làm cho Ngài bị thương. Đối với tội này, đức Phật là đại thánh nhân, Ngài đến thế gian ḥng cứu vớt hết thảy chúng sanh, cho nên kết tội (luận tội) này chẳng phải là đức Phật luận tội. Đức Phật đại từ đại bi, dẫu quư vị thật sự có thể giết Ngài, đức Phật cũng chẳng trách quư vị. Tội này tính từ chỗ nào? Tính từ chỗ chúng sanh. V́ quư vị tạo tội ấy mà chúng sanh chẳng thể nghe Phật pháp. Tội lỗi ấy nặng lắm! Quư vị đoạn dứt Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh [nên mắc đại tội], chứ quư vị chẳng tạo tội với Phật. V́ thế, nói thật ra, Phật, Bồ Tát, A La Hán đều đại từ đại bi, dù quư vị có giết hại các Ngài, các Ngài vẫn chẳng trách quư vị, chẳng oán hận mảy may, thật đấy! Vậy th́ tại sao [kết tội nặng như vậy]? Luận tội là luận theo phía chúng sanh, quư vị khiến cho chúng sanh bị mất một vị thầy giỏi, chẳng thể nghe Phật pháp, luận tội từ chỗ này. Do đó, tội này nặng lắm. Quư vị cũng chẳng thể thay thế Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, [nên đă]
đoạn dứt Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh. V́ thế, chúng ta phải hiểu nguyên nhân của tội này, đó là tội đọa địa ngục.
Tội thứ năm là “phá ḥa hợp Tăng”, tức là phá hoại Tăng đoàn. Tăng đoàn ở đây phải là Tăng đoàn ḥa hợp. Tăng đoàn ḥa hợp là Tăng đoàn thật sự tŕ giới, y giáo tu hành, chẳng phải là những đạo tràng thông thường. Trong tội này c̣n bao gồm điều ǵ? Pháp sư giảng kinh, pháp sư dạy học, giảng kinh, trong Tăng đoàn ḥa hợp nhất định là có pháp sư giảng kinh. Nếu không, chẳng thể nào có Tăng đoàn ḥa hợp được! Ḥa hợp phải nhờ giáo dục, chắc chắn là Tăng đoàn ấy phải có giáo học. V́ vậy, chúng ta phải biết Phật pháp kể từ lúc đức Phật Thích Ca khởi đầu luôn luôn là giáo dục. Thuở đức Phật tại thế, đức Phật dạy học mỗi ngày. Lúc đó, hết thảy các nghi thức tôn giáo như hiện thời đều chẳng có, ngay cả công khóa sáng tối cũng chẳng có. Do vậy, người xưa có câu “sư phụ dẫn vào cửa, tu hành do cá nhân”. Quư vị nghe giảng, nghe giảng xong đă hiểu rơ, bèn áp dụng những đạo lư và phương pháp ấy vào đời sống hằng ngày, thực hiện trong đời sống, trong việc làm, trong sự đăi người, tiếp vật; đó là Phật pháp, chúng ta chớ nên không biết việc này. Hơn nữa, suốt một đời, đức Phật chẳng dựng đạo tràng, Ngài chẳng có chùa miếu, sống cuộc đời du mục, đêm nghỉ ngơi nơi đâu? Ngài nghỉ dưới gốc cây, mỗi ngày ăn một bữa, đêm nghỉ dưới gốc cây. Đức Phật quy định, mỗi gốc cây chỉ có thể trú một đêm, hôm sau phải đến cội cây khác. Tại sao? Sợ quư vị khởi tâm tham: Cội cây này tốt lắm, rất lớn, tàng cây che rộng, tốt lắm! Mỗi đêm tôi đều ở dưới gốc cây này, khởi tâm tham! Do vậy, quy định chỉ ở tạm nơi đó một đêm, hôm sau phải đổi sang cội cây khác. Cả đời Ngài sống như người du mục, chẳng để cho quư vị khởi lên một mảy tâm tham, xả hết sạch, tài sản cả đời chỉ là ba y, một bát, nêu gương cho chúng ta thấy. Từ lúc mười chín tuổi bèn sống cuộc đời như vậy, đến bảy mươi chín tuổi viên tịch, Ngài cũng viên tịch trong rừng cây, chẳng phải ở trong nhà, buông xuống triệt để, làm gương cho hàng hậu học. Tóm lại, tội Ngũ Nghịch là tội rất nặng, phải đọa địa ngục A Tỳ.
Tội Thập Ác gồm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời thô lỗ, cộng thêm tham, sân, si, đó là Thập Ác. Ngũ Nghịch, Thập Ác là tội đọa địa ngục. Do vậy, có thể biết Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có những kẻ đó, nên cơi ấy chẳng có địa ngục. Nói cách khác, quư vị tu hành trong hoàn cảnh đó, thấy toàn là Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Quư vị chẳng t́m thấy một kẻ ác nào trong thế giới đó. V́ chẳng có duyên, tuy gốc rễ tham, sân, si c̣n chưa dứt, mang theo nghiệp, [tức là] đới nghiệp văng sanh, nhưng trong thế giới Cực Lạc chẳng có duyên ấy. Những ǵ quư vị thấy đều là vừa ḷng thỏa ư, chẳng có ǵ chọc quư vị nổi giận. Ở đó, đúng là “ai cũng là người tốt, chuyện ǵ cũng là chuyện tốt”, làm sao quư vị nổi giận cho được? V́ vậy, [Cực Lạc] chẳng có duyên địa ngục, mà cũng chẳng có nhân địa ngục. Quư vị sống nơi đó lâu ngày, dần dần tham, sân, si đều đoạn dứt. Đây là nói về địa ngục, địa ngục khổ lắm, trong phần sau sẽ nói kỹ hơn.
Thứ nh́ là ngạ quỷ, ngạ quỷ cũng rất khổ, nhân của ngạ quỷ là ǵ? Là tham lam. Do vậy, tâm tham là ngạ quỷ đạo. Tham ngũ dục, lục trần, tham tài, tham danh, tham sắc. Nói thật ra, người học Phật hiện thời dẫu học Phật vẫn có thể đọa làm ngạ quỷ, có thể đọa địa ngục, tại sao vậy? Sức tham, sân, si quá mạnh, tập khí phiền năo quá nặng. Học Phật rồi mà vẫn không chịu nhường nhịn kẻ khác, chẳng thể nhường nhịn! Thắp hương phải thắp cây hương đầu tiên, nếu thắp cây thứ nh́, họ sẽ nổi giận, sẽ chửi rủa kẻ khác. Đó là nguyên nhân khiến cho người học Phật cũng đọa địa ngục, v́ có đố kỵ chướng ngại, chúng ta thấy những điều này [được chép] trong kinh điển. Kinh Di Lặc Sở Vấn vừa mở đầu liền kể chuyện hai vị tỳ-kheo, xuất gia giảng kinh, thuyết pháp, pháp duyên rất thịnh, thính chúng rất hoan hỷ. Hai vị tỳ-kheo khác thấy hai vị ấy pháp duyên quá tốt đẹp bèn khởi tâm đố kỵ, t́m mọi cách để phá hoại, loan tin đồn, bịa chuyện trong thính chúng. Họ nói hai vị pháp sư ấy giảng kinh rất hay, có khẩu tài, nhưng hành vi chẳng tốt, phá giới, tạo tội nghiệp. Sau khi thính chúng nghe tin đồn này bèn mất ḷng tin đối với hai vị pháp sư giảng kinh. V́ lẽ đó, hội giảng kinh phải giải tán. Hai vị tỳ-kheo phá hoại đạo tràng, phá hoại sự giảng kinh của người khác chết đi, đọa địa ngục A Tỳ. Sau một thời gian rất dài chịu tội trong địa ngục, thọ hết tội ở địa ngục xong, thoát ra, h́nh như là năm người đó sanh trong nhân gian. Kinh gọi họ là Ngũ Phiến Đề La, tức là năm gă cu-li, năm người làm nghề khiêng kiệu, khiêng kiệu cho một phụ nữ giàu có. Nguyên nhân là ǵ? Do lúc trước có một vị cư sĩ hộ tŕ đạo tràng, v́ năm người ấy phá hoại đạo tràng, nên [sau khi thọ tội xong], đời này sanh làm người, phải làm kẻ khiêng kiệu để hầu hạ người [hộ tŕ đạo tràng] ấy. Nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai. V́ lẽ đó, thiện nhân tạo thiện quả, ác nhân tạo ác báo, chẳng phải là không báo, mà là chưa đến lúc. Hễ đă tới lúc, hết thảy đều phải chịu báo! Trong phần sau, [sách Chú Giải] c̣n có một đoạn văn dài giảng kỹ hơn về ngạ quỷ đạo. Đây là chuyện rất phiền phức.
“Súc sanh đạo” là ngu si; ngu si là chẳng thể phân biệt giả, thật, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, nay chúng ta nói là “quan niệm về giá trị sai lầm”, tạo thành sự đọa lạc. Chúng ta đọc sách Mạnh Tử, [sẽ thấy] quan niệm về giá trị của Mạnh Tử là nhân nghĩa, quan niệm về giá trị của Lương Huệ Vương là danh lợi. Nhưng Lương Huệ Vương cũng rất thông minh, tiếp nhận sự dạy bảo của Mạnh Tử, thâu liễm trở lại, rất đáng quư! Con người rốt cuộc c̣n có thiện căn, chỉ cần có người hiểu rơ sự việc chỉ điểm cho họ, họ có thể quay lại, trở thành một người tốt, chớ nên không biết điều này. Người xưa nói rất hay, Phật pháp cũng nói giống như vậy, “thân người khó có, Phật pháp khó được nghe”. Trong lục đạo, nói thật ra, con người tuy không cao quư, nhưng dễ giác ngộ, đáng quư ở chỗ này! Cơi trời tốt hơn cơi người, do phước báo lớn nên [họ chỉ biết] hưởng phước, chẳng biết tu hành. V́ lẽ đó, Phật, Bồ Tát hoằng pháp trên cơi trời chẳng có hiệu quả lớn cho mấy, chỉ gieo một chút thiện căn cho họ mà thôi. Tại sao vậy? Cơi trời chẳng khổ, chỉ có sung sướng, [vậy th́] tôi học Phật để làm ǵ? Do đó, Phật pháp có nói “giàu sang khó học đạo”, họ chẳng dễ tiếp nhận. Tam ác đạo ví như kẻ bần cùng, ba bữa ăn c̣n chưa no, lấy đâu ra thời gian theo quư vị học đạo? Do vậy, nghèo hèn học đạo cũng khó. Cơi người ở chính giữa, được coi là “tiểu khang”, chẳng giàu mà cũng chẳng nghèo, cuộc sống cũng tàm tạm, người như vậy rất dễ tiếp xúc [Phật pháp]. V́ lẽ đó, Phật, Bồ Tát tu hành chứng quả đều ở trong cơi người. Chúng ta cũng biết Phật, Bồ Tát giảng kinh, dạy học, chẳng bao giờ thị hiện tu hành chứng quả trên cơi trời, chẳng có, mà cũng chẳng thị hiện trong ba cơi ác. Do vậy, có thể biết thân người đáng quư, thân người khó được, điều đáng quư là con người dễ giác ngộ, xác thực là con người có thể dạy bảo, chỉ cần có hoàn cảnh thuận lợi. Chúng tôi cảm thấy toàn thể thế giới ngày nay tuy là xă hội động loạn, nhưng chẳng phải là không cứu được. Nếu là trong quá khứ, [trông thấy] cả thế giới động loạn như hiện tại, chúng tôi cảm thấy rất bi thương, tại sao? [V́ lúc ấy, chúng tôi nghĩ] đúng là ngày tàn của thế giới, ai có thể cứu vớt thế giới này?
Tại sao hiện thời chúng tôi có cách nh́n khác với lúc trước? Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, công cụ tốt nhất là truyền h́nh, truyền thông đại chúng. Nếu trong hệ thống truyền thông, thật sự có những vị chánh nhân quân tử, giảng luân lư, giảng đạo đức, giảng nhân quả, giảng những giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, ngày nào cũng giảng, vừa mở truyền h́nh là quư vị có thể nghe được, có thể tiếp nhận, tôi tin là khoảng một năm, trật tự trong toàn thể thế giới sẽ được khôi phục, trở thành b́nh thường. Chẳng thể không dạy học! Công cụ dạy học hiện thời quá tốt, có thể đem sự giáo học đến tận nhà quư vị, chẳng cần ra khỏi cửa, quư vị ở nhà cũng học được. Thế nhưng, công cụ tốt như vậy phải có người biết dùng. Nếu chẳng biết dùng, các công cụ ấy sẽ giống như nước, có thể nâng thuyền, mà cũng có thể lật thuyền. Nó có thể cứu quư vị, mà cũng có thể hủy diệt quư vị. Tôi nhớ có lần tôi ở nhà giáo sư Phương Đông Mỹ, nhằm đúng hôm đó có ba vị quan chức của bộ Giáo Dục Đài Loan đến nhà thầy Phương thỉnh giáo: “Làm thế nào để có thể phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc?” Họ đặt ra câu hỏi ấy, lúc đó, tôi cũng có mặt. Sau khi họ nêu câu hỏi, thầy Phương hết sức nghiêm túc, lặng thinh suốt năm, sáu phút, trầm mặc hết năm, sáu phút rồi thầy mới trả lời: “Có”. Họ hỏi: “Phương pháp ǵ?” Thầy trả lời, điều thứ nhất là lúc bấy giờ Đài Loan có ba đài truyền h́nh, thầy nói phải đóng cửa ba đài truyền h́nh ấy. C̣n khoảng hai, ba chục đài truyền thanh, đài vô tuyến truyền thanh chẳng có h́nh ảnh, cũng phải đóng cửa. Cuối cùng là phải đóng cửa tất cả những báo chí, tạp chí hiện đang lưu hành lúc đó. Họ nghe xong bèn đáp: “Thưa thầy, những biện pháp ấy chẳng thể nào thực hiện được!” Thầy nói: “Những thứ này hằng ngày đều đang phá hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc. Chỉ cần chúng tồn tại, quư vị làm sao có thể nói đến chuyện phục hưng cho được?” Lời ấy đúng quá, chẳng sai! Quư vị thấy truyền h́nh, thuở ấy c̣n chưa có mạng Internet, mạng Internet hiện thời c̣n lợi hại hơn truyền h́nh. Hết thảy truyền thanh, điện ảnh, tạp chí, báo chí đều dạy con người những ǵ? Đều dạy quư vị giết, trộm, dâm, dối. Đó chính là điềm báo ngày tàn của thế giới, ở ngay trước mắt, quư vị há có nên chẳng biết hay sao?
Do vậy, thầy nói: “Truyền h́nh là một công cụ rất tốt. Nếu có thể dùng nó trong giáo dục, khôi phục truyền thống luân lư đạo đức cổ truyền, quốc gia sẽ được cứu văn, thế giới sẽ được cứu văn”. Tôi tin họ cũng chẳng dám đăng báo lời thầy đă nói hôm đó, chỉ nghe qua rồi thôi, đúng là như vậy. Thời gian tôi theo thầy học rất dài. Đối với truyền h́nh, thầy nhắc nhở nhiều lần: “Truyền h́nh là công cụ rất tốt, phải ghi nhớ. Nếu có duyên th́ phải lợi dụng nó”. Lúc đó, tôi nghe vậy, chẳng dám tưởng tượng. Chuyện này đ̣i hỏi tiền vốn quá cao, chi phí [phát h́nh] tính theo từng giây, làm sao chúng tôi chịu được? Do vậy, đời này toàn do Phật, Bồ Tát gia tŕ, chúng tôi có nằm mơ cũng không tưởng được, chẳng dám nghĩ tới. Chúng tôi dạy học cả đời, dạy hằng ngày chẳng gián đoạn suốt năm mươi hai năm. Chúng tôi đă dùng mạng Internet khoảng mười mấy năm, đại khái khoảng mười lăm năm. Đă dùng [truyền h́nh] vệ tinh tám năm rồi, bắt đầu dùng vệ tinh từ Tết Nguyên Đán năm 2003, quả thật có ảnh hưởng rất lớn, toàn thế giới đều có thể thâu h́nh. Do đó, đối với chuyện này, tôi có khái niệm rất sâu: Nếu quốc gia biết vận dụng luân lư, đạo đức, vận dụng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền khiến cho ḷng người đoan chánh, chỉ cần mời năm mươi giáo sư là đủ rồi. Mỗi ngày giảng giải giáo huấn của cổ thánh tiên hiền. Năm mươi vị giáo sư dùng chương tŕnh dạy học từ xa (telecourses), dùng phương pháp ấy. Phát h́nh mỗi ngày hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn. Quư vị có một đài truyền h́nh là đài giáo dục xă hội, dùng đài truyền h́nh phát h́nh hai mươi bốn giờ không gián đoạn, chẳng nhận học phí, quốc gia có thể thực hiện. Sau khi đài này xuất hiện, tôi tin là những đài truyền h́nh khác sẽ chẳng có ai coi nữa. V́ sao hiện thời có người coi? V́ họ chẳng có những tiết mục nào khác để coi. Nếu có một đài truyền h́nh có nội dung tốt đẹp như vậy, họ sẽ không coi đài khác. Chính chúng tôi cũng biết, tôi giảng kinh dùng truyền h́nh vệ tinh, trong ṿng tám năm nay, có rất nhiều đồng tu nói với tôi, họ chỉ coi đài giảng kinh này, không coi những chương tŕnh truyền h́nh khác nữa. Thậm chí có một nhà từ già tới trẻ đều coi chương tŕnh này, đều thích coi đài này. Do đó, có thể thấy bản tánh của con người là hiếu thiện (ham chuộng điều lành), người hiếu thiện cũng c̣n rất nhiều. Tại sao không làm như vậy? Chúng ta có thể quay trở lại, cả nhà đích thực có hạnh phúc mỹ măn, xă hội an định hài ḥa, rất nhiều xung đột trên thế giới đều có thể hóa giải, trên địa cầu cũng sẽ chẳng có nhiều tai nạn như hiện tại. Đây là điều mọi người đều mong mỏi, đă có phương pháp để có thể đạt được, cớ sao không làm? Do chúng ta đă biết nghiệp nhân của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nếu chúng ta có thể tiêu trừ những nghiệp nhân ấy th́ trong thế gian này sẽ không c̣n ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba đường ác là do tâm hạnh bất thiện của chúng ta biến hiện, duy thức sở biến. Đức Phật nói rất đơn giản, do tham, sân, si biến ra, tâm tham biến ra ngạ quỷ, tâm sân hận biến ra địa ngục, ngu si biến ra súc sanh.
Giáo học là một việc rất vui sướng. Nếu chẳng thật sự vui sướng, há Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n làm việc ngớ ngẩn này ư? Ngài thông minh như vậy, [không lẽ lại làm việc ngớ ngẩn sao]. Nói thật ra, Khổng lăo phu tử hơi khác đức Phật Thích Ca. Khổng Tử c̣n muốn t́m một, hai chức quan để phô trương tài năng, nhưng Ngài đúng là một người có đạo đức, tuyệt đối chẳng dùng thủ đoạn phi pháp, chu du các nước suốt mười mấy năm chẳng ai dám dùng Ngài, thời đó là thời loạn mà! Đến lúc sáu mươi tám tuổi, đă già rồi, thôi đi, Ngài mới buông bỏ ư niệm ấy, trở về quê dạy học. Lăo nhân gia mất lúc bảy mươi ba tuổi, trên thực tế, chỉ dạy học năm năm, từ sáu mươi tám tuổi dạy tới lúc bảy mươi ba tuổi. Năm năm dạy học có ảnh hưởng đối với Trung Quốc, đối với toàn thế giới to lớn ngần ấy, quư vị thấy sự nghiệp ấy có ư nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni Phật biết [lợi ích của sự giáo dục], nên sau khi giác ngộ, Ngài không làm ǵ khác, chuyên tâm dạy học, dạy suốt bốn mươi chín năm, vui sướng ấy vô cùng. Đức Phật Thích Ca có địa vị, ngôi vua đang đợi Ngài, nhưng Ngài từ bỏ, chẳng làm! Làm vua, dẫu cai trị tốt đẹp cách mấy đi nữa, cũng chỉ giới hạn trong một nước nhỏ bé. Quư vị đi dạy học, có bao nhiêu người được lợi ích! Sự giáo học của Ngài chẳng phân chia quốc tịch, chẳng phân chia chủng tộc, cũng chẳng phân chia tôn giáo, tín ngưỡng. Chỉ cần quư vị chịu đến học, Ngài liền dạy, đúng là “người đến không từ chối, người đi không lưu giữ”, dạy suốt cả đời, ảnh hưởng toàn thế giới. Hiện nay, trên thế giới thông thường là nói tới tôn giáo, mọi người bèn nói tới Phật giáo. Tôi nghe nói trên toàn thế giới, người tin theo Phật giáo ước chừng sáu, bảy trăm triệu người, có ảnh hưởng lớn như vậy. Tôi cũng đi theo con đường này, do thầy tôi khuyên. Năm xưa, lúc tôi mới bắt đầu học Phật, do thầy Phương Đông Mỹ giới thiệu, tôi bước vào ngưỡng cửa Phật giáo, nhận thức Phật giáo. Chương Gia đại sư đă giúp tôi đặt vững cơ sở học Phật. Tôi học theo Ngài ba năm, Ngài mất lúc sáu mươi tám tuổi. Khi tôi bắt đầu theo học, Ngài đă sáu mươi lăm tuổi. Ngài khuyên tôi xuất gia, dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Đời này tôi chẳng cô phụ Ngài, làm một người học tṛ ngoan của Ngài.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy
học; tôi cũng đi theo con đường ấy,
sống cuộc đời rày nay mai đó, chẳng ở
nhất định một chỗ nào. Chỗ nào có duyên bèn
tới đó. Nhưng tôi muốn giúp đỡ một
số người trẻ tuổi có chí học tập, v́
trong xă hội hiện thời, không chỉ là đạo Nho,
đạo Phật, đạo Lăo thiếu nhân tài, mà
những tôn giáo khác cũng không ngoại lệ. Tôi thấy
chuyện này rất nhiều, nhân tài rất quan trọng.
Làm thế nào để vun bồi nhân tài? Trong các buổi
giảng kinh, tôi đă nêu ra các phương pháp ấy.
Thật sự nương theo
phương pháp của cổ nhân để tu học,
phương pháp của cổ nhân được ghi trong
tám câu đầu của Tam Tự Kinh, đó là nguyên tắc
giáo huấn thế hệ sau cao nhất do tổ tiên
truyền lại. Câu đầu tiên là “nhân chi sơ, tánh
bổn thiện” (con
người thoạt đầu tánh vốn lành).
Nếu quư vị muốn tiến hành giáo dục th́
trước hết phải khẳng định tánh con
người vốn thiện. Nếu quư vị học
Phật, dạy người khác học Phật th́
trước hết phải khẳng định hết
thảy chúng sanh vốn là Phật. Quan niệm ấy quan
trọng hơn bất cứ ǵ khác. Tôi dạy học
với mục đích ǵ? Học Phật th́ phải giúp
họ thành Phật; tôi dạy văn hóa truyền thống
của Trung Quốc là để giúp họ thành thánh nhân,
được như vậy th́ sự giáo học ấy
mới có ư nghĩa; đây là khái niệm cơ bản quan
trọng nhất.
Câu thứ hai giải thích v́ sao
quư vị phải dạy học: “Tánh tương
cận, tập tương viễn” (bản tánh của con
người vốn giống nhau, tập tánh khác nhau). Nói
theo bản tánh, bản tánh vốn lành, bản
tánh của người nào cũng giống nhau, nhưng
tập tánh khiến cho chúng ta càng ngày càng cách xa bản tánh
vốn lành ấy, đó là ǵ? Chịu ảnh hưởng
của hoàn cảnh. Hiện tại, hoàn cảnh ảnh
hưởng con người nhiều nhất là truyền
h́nh và Internet, những thứ ấy đều dạy
hư con người, rất đáng sợ! “Cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (nếu
chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi), đây là lư
do khiến cho giáo dục phát sanh. V́ sao cần phải
tiến hành giáo dục? Nếu quư vị không dạy, con
người trong tương lai sẽ trở thành hư
hỏng hết.
Dạy như thế nào? “Giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên” (phương
pháp dạy học, quư ở chỗ chuyên nhất). Tám câu
ấy! Đối với phương pháp này, Phật
giáo cũng giống như vậy, luôn chủ trương “chuyên công”, tức là dồn
sức vào một môn, đừng học nhiều thứ
quá. Một môn đă thông suốt, các môn khác cũng sẽ
thông suốt. Đó là quan niệm trong lối giáo dục
của phương Đông. “Một
môn thông suốt” là thông suốt điều ǵ? Kiến
tánh, khai ngộ. Nếu chẳng khai ngộ, chứng
tỏ quư vị chưa thông suốt. Do vậy, dạy quư
vị phương pháp, đó là giữ quy củ. Giữ
quy củ chính là tŕ giới. Tŕ giới đă lâu, có thể
tŕ ba, bốn năm, những người b́nh phàm có căn
tánh hạng trung, tŕ trong ṿng ba bốn năm, tâm sẽ thanh
tịnh. Tôi nghĩ kẻ căn tánh độn hơn
một chút th́ bốn hay năm năm sẽ đắc tâm
thanh tịnh. Đó là đắc Định, đắc
Định hai ba năm bèn mở mang trí huệ. Trí huệ
mở mang, quư vị sẽ hiểu bộ kinh này, hết
thảy các kinh đều thông suốt. Không chỉ thông
suốt Phật pháp, mà hết thảy các pháp thế gian
cũng đều thông suốt, quư vị thấy như
vậy th́ sẽ tiện lợi biết bao! Nếu quư
vị không biết phương pháp này, cứ học
rộng nghe nhiều, học càng nhiều, chỉ học
được tri thức, hiểu được rất
nhiều việc, nhưng những ǵ quư vị chưa
học sẽ không hiểu. Đối với những
thứ của Trung Quốc, khi quư vị đă thật
sự hiểu một thứ, đối với những
thứ chưa học cũng hiểu, vừa tiếp xúc
liền hiểu, vừa nh́n, vừa nghe, vừa tiếp
xúc, quư vị liền biết hết. Đó là ǵ? Đó là
trí huệ vốn có trong tự tánh của quư vị, quư
vị phải lấy trí huệ trong tự tánh ra
[để sử dụng]. Lối dạy học truyền
thống của Trung Quốc và lối dạy học trong
Phật pháp đều chú trọng phương pháp này,
rất có hiệu quả, các phương pháp khác chẳng
thể sánh bằng. Tôi nhớ một câu nói của tiên sinh
Tôn Trung Sơn, thời đó, tiên sinh đă nói: “Người ngoại quốc
chỉ mạnh hơn người Hoa hai chuyện, một
là cơ khí, hai là khoa học kỹ thuật. Ngoài hai thứ
đó ra, điều ǵ người ngoại quốc
cũng chẳng bằng Trung Quốc”. Nói rất
đúng! Đối với chánh trị và triết học
th́ người ngoại quốc phải học theo
người Trung Quốc, nói chẳng sai tí nào. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây
thôi!
Tập 196
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai trăm ba mươi mốt, hàng thứ hai, bắt đầu từ câu thứ hai, bắt đầu từ chữ “địa ngục “:
“Địa ngục,
thử vi Hán ngữ” (Địa ngục là tiếng Hán), đây là
tiếng Trung Quốc, “Phạn
ngữ vi Na Lạc Ca, Nê Lê đẳng” (tiếng Phạn là Na-lạc-ca (Naraka) hay
Nê-lê (Nairya) v.v...), chữ Đẳng nghĩa là trong
tiếng Phạn c̣n có nhiều danh từ khác nữa,
chỉ nêu sơ lược hai thứ. “Nhiếp Đại Thừa Luận Âm Nghĩa
viết, thử dịch hữu tứ nghĩa” (sách
Nhiếp Đại Thừa Luận Âm Nghĩa nói: “Dịch
ra [tiếng Hán], Nê Lê có bốn nghĩa”), tức là nói trong
tiếng Phạn, danh xưng Địa Ngục có bốn ư
nghĩa. Thứ nhất là “bất
khả lạc” (chẳng thể vui sướng),
nghĩa là nơi ấy chẳng an vui, vậy th́ càng
chẳng thể có vui sướng, chỉ có khổ,
chẳng có vui, chúng ta thường nói là “khổ chẳng
nói nổi”!
Ư nghĩa thứ hai là “bất khả cứu tế” (chẳng
thể cứu vớt). Ngay cả Phật, Bồ Tát
muốn cứu giúp cũng không giúp nổi, tại sao
vậy? Do nghiệp lực bất thiện của chính ḿnh
chiêu cảm mà có. Khi xưa, lúc tôi mới học Phật,
cụ Châu Kính Trụ kể cho tôi nghe một câu chuyện,
chuyện có thật. Bố vợ của cụ là ông
Chương Thái Viêm, thuở ấy, cụ Chương
hết sức nổi tiếng, hầu như những
người có học thức chẳng ai không biết
đến tên tuổi cụ. Cụ Chương là bậc
thầy về Quốc Học trong thời đầu Dân
Quốc. Có một thời gian, cụ Chương bị
Đông Nhạc Đại Đế mời làm phán quan.
Đông Nhạc đại đế là đại quỷ
vương. Trung Quốc có Ngũ Nhạc, nghĩa là [lănh
thổ Trung Quốc] chia ra năm vùng, mỗi vùng gồm có
mấy tỉnh. Đông Nhạc Đại Đế cai
quản Thái Sơn, miếu thờ của Ngài ở Thái
sơn thuộc tỉnh Sơn Đông. [Đại Đế]
mời cụ Chương làm phán quan, phán quan là chức quan
ǵ? Giống như Bí Thư Trưởng vậy, chức
vị này rất cao. Mỗi tối, có hai tên tiểu
quỷ khiêng kiệu cho cụ đi làm, trời gần sáng
th́ đưa cụ về nhà. Ban ngày bận làm việc cơi
người, ban đêm bận làm việc cơi quỷ, vô cùng
khổ nhọc. Một hôm, cụ dùng giấy vàng
để viết đơn xin nghỉ, đốt tờ
giấy đó trước cửa th́ đêm đó tiểu
quỷ chẳng đến t́m cụ nữa, giống
như Đông Nhạc Đại Đế chấp
thuận cho cụ nghỉ phép. Cụ là một
người thư sinh, học rất giỏi.
Có một hôm, cụ
kiến nghị với Đông Nhạc Đại Đế,
cụ nghe nói h́nh phạt bào lạc (ôm cột đồng)
dưới địa ngục quá tàn khốc. H́nh phạt
này là dùng cột sắt đốt cho nóng đỏ rực
lên, rồi bắt tội nhân ôm cột cháy đỏ
rực ấy, h́nh phạt như vậy đó. Cụ
Chương nói: “Như vậy là quá tàn nhẫn, có thể
phế trừ h́nh phạt đó hay không?” Đông Nhạc Đại
Đế nghe xong, bảo cụ hăy đi xem thử. Vua
liền sai hai tiểu quỷ dẫn cụ đến
hiện trường (nơi đang
xử phạt) để xem. Đi một lúc lâu mới
tới, tiểu quỷ nói: “Đă tới rồi” và chỉ
[nơi đang xử phạt ở] ngay trước
mặt, cụ Chương chẳng nh́n thấy ǵ cả!
Lúc đó, cụ Chương mới đột nhiên
hiểu ra, v́ cụ cũng là tín đồ Phật
giáo, là đệ tử của Phật môn, liền biết
đó là do nghiệp lực của tội nhân biến
hiện, chẳng liên quan đến vua Diêm La. Chẳng
phải vua Diêm La lập ra h́nh phạt ấy, cũng
chẳng do thần thiết kế, cũng chẳng do
Bồ Tát, đều chẳng dính dáng ǵ cả, mà do
nghiệp lực của người đó biến
hiện, tự làm tự chịu. Nếu chẳng có
nghiệp lực ấy, quư vị cũng chẳng nh́n
thấy. Lúc đó, cụ mới hiểu sự việc là
như vậy, nên gọi là “chẳng
thể cứu”. Quư vị thấy lăo cư sĩ
Chương Thái Viêm có ḷng từ bi, hy vọng có thể
phế trừ h́nh phạt ấy, vừa nh́n liền
biết chẳng thể nào phế trừ chuyện ấy,
trừ phi người đó chịu hồi tâm, thật
sự sám hối, sửa lỗi đổi mới,
cảnh giới ấy mới mất đi. Nhưng
người đang chịu tội do quá khổ, chẳng
nhớ sám hối, vấn đề ở chỗ này. Ông
Chương là người có thiện căn sâu dầy.
Trong địa ngục
cũng có Phật, Bồ Tát, Địa Tạng
Vương thường ngự trong địa ngục
để nhắc nhở những hạng người nào?
Đối với những người gần giác ngộ,
nhưng chưa giác ngộ, vừa nhắc nhở, họ
liền có thể thật sự sám hối, liền có
thể thoát khỏi địa ngục. Nếu không
phải ngay trong giây phút quyết định đó, quư
vị có nhắc họ cũng không được, họ
chẳng nghe, v́ họ đang bị sự khổ bức
bách, chỉ tập trung chú ư nỗi khổ, chịu
khổ, chịu nạn, chẳng để ư người
bên cạnh đang nhắc nhở họ. Đây là nói
chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh, giúp đỡ
chúng sanh, phải có duyên phận và cơ duyên nhất
định. [Duyên phận là lúc] họ sắp ngộ
nhưng chưa ngộ, lúc đó là một cơ hội, Bồ
Tát có thể nắm lấy cơ hội này. Do vậy, chúng
sanh trong địa ngục có niệm Phật văng sanh
Tịnh Độ hay không? Cũng có! Khi Phật, Bồ Tát
vừa chỉ điểm, họ liền sám hối,
sửa lỗi, đổi mới, liền thoát khỏi
địa ngục, địa ngục liền biến
mất. Nếu một niệm ấy là niệm Phật
[liền văng sanh], v́ sao họ biết niệm Phật? Trong
đời quá khứ đă từng là người niệm
Phật, nên trong A Lại Da Thức có sẵn chủng
tử, khi Phật, Bồ Tát vừa nhắc nhở, họ
liền niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Họ vừa niệm một câu A Di Đà Phật, một
niệm hay mười niệm, chắc chắn
được văng sanh, thật vậy, chẳng giả!
Chúng sanh trong địa ngục có thể văng sanh thế
giới Cực Lạc, huống hồ con người?
Điều quan trọng là có thể quay lại hay không, có
thể đoạn ác tu thiện hay không, có thể đoan
chánh cái tâm của chính ḿnh hay không, thật sự giác
ngộ. Đây là ư nghĩa thứ hai.
Ư nghĩa thứ ba là “ám minh” (tối tăm). Trong
địa ngục chẳng thấy mặt trời,
cũng chẳng thấy mặt trăng, cũng chẳng
thấy tinh tú, mỗi ngày bầu trời đều tối
om. Giống như cơi người chúng ta lúc trời mưa,
lúc mưa quá nhiều, mây đen giăng đầy, trong
địa ngục cũng giống như vậy nhưng
chẳng có nước mưa, chỉ có mây đen giăng
kín, hoàn cảnh giống như vậy đó. Địa
ngục càng nghiêm trọng th́ mức độ tối
tăm càng cao.
Ư nghĩa thứ tư
là “địa ngục”, ngục là nhà tù, [địa
ngục] là nhà tù dưới đất. Địa ngục
có bốn ư nghĩa như vậy. “Kim kinh ngôn
địa ngục năi kỳ trung chi nhất nghĩa” (chữ “địa
ngục” dùng trong kinh này chỉ là lấy một trong
bốn nghĩa trên đây), trong bốn nghĩa ấy, chúng
ta thường dùng ư nghĩa địa ngục, tức là
chỉ dùng ư nghĩa thứ tư.
Tiếp đó, trích
dẫn “Bà Sa Luận”, tức là Đại Tỳ Bà
Sa Luận có nói [như thế này]: “Thiệm Bộ Châu hạ” (phía dưới châu Thiệm
Bộ), Thiệm Bộ Châu (Jambudvīpa) tức là Nam Thiệm
Bộ Châu, là địa cầu của chúng ta. [Địa
ngục ở] phía dưới bề mặt địa
cầu, do vậy, địa ngục là lửa. Chúng ta
biết trung tâm của trái đất đích thực là
lửa, các khoa học gia hiện thời cũng đă
chứng minh điều ấy. Nó là lửa, trong đó vô
cùng khổ sở, là một biển lửa. “Quá ngũ bách du-thiện-na” (hơn
năm trăm du-thiện-na), du-thiện-na là một danh
từ, phía dưới sẽ có giải thích, “năi hữu địa ngục”
(có địa ngục). Du-thiện-na (Yojana) c̣n gọi là “do-tuần, Thiên Trúc lư số chi
danh” (do-tuần là đơn vị dùng để tính
số dặm tại Thiên Trúc), Thiên Trúc là Ấn Độ,
là danh xưng của đơn vị tính số dặm
ở Cổ Ấn Độ. “Duy Ma Kinh Triệu Chú” (bản chú giải kinh
Duy Ma của ngài Tăng Triệu), theo bản chú giải
của Tăng Triệu đại sư, “thượng do-tuần lục thập lư” (thượng
do-tuần là sáu mươi dặm), giống như Trung
Quốc, “trung do-tuần ngũ
thập lư, hạ do-tuần tứ thập lư” (trung
do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là
bốn mươi dặm), Tăng Triệu đại
sư nói như vậy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong
cách phiên dịch của các pháp sư khác, thượng
do-tuần là tám mươi dặm, trung do-tuần là sáu
mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi
dặm. Có hai cách nói như trên, cả hai cách nói đều
có căn cứ, rốt cuộc là cách nào đúng, rất khó
nói! Tóm lại, đơn vị dặm của Ấn
Độ lớn hơn của Trung Quốc. Dùng tiểu
do-tuần để nói, tức là hạ do-tuần,
tiểu do-tuần cũng đến bốn mươi
dặm, đại khái chuyện này chẳng có vấn
đề. Có rất nhiều chỗ [kinh luận] nói
tiểu do-tuần bằng bốn mươi dặm,
nhưng trung do-tuần và đại do-tuần th́ khác nhau.
Có thể thấy: Cứ lấy tiểu do-tuần
để tính, một do-tuần là bốn mươi
dặm, sâu năm trăm do-tuần dưới mặt
đất chính là địa ngục.
“Cố
thường ngôn địa ngục, dĩ ngục tại
địa hạ dă” (Như vậy, ta thường nói
“địa ngục” là chỉ cái ngục ở dưới
đất), nói địa
ngục ở dưới đất, “đản ưng tri giả, địa ngục
bất cẩn tại địa hạ” (nhưng
thật ra hăy nên biết là địa ngục chẳng
phải chỉ ở dưới đất). Kinh Phật
ghi chép rất nhiều, “hoặc
tại sơn gian” (hoặc ở trên núi), trên núi cao
cũng có, bờ biển cũng có, hoặc
trong đồng hoang, dưới cội cây, giữa không
trung đều có địa ngục. Do đó, có thể
biết địa ngục chẳng thuộc cùng một
chiều không gian với chúng ta, khắp nơi đều
có, trong phần sau, sẽ giới thiệu chi tiết. Tuy
là chi tiết, nhưng [chỉ là nói] cặn kẽ hơn
ở đây một chút. Muốn thật sự hiểu rơ
nó th́ trong kinh Phật có nói rất nhiều, trong rất
nhiều kinh luận cũng đă giải thích rơ ràng. Chúng
tôi đă từng tra t́m hết thảy có hơn hai
mươi bộ kinh luận, đức Phật nói về
địa ngục rơ ràng hơn Đạo giáo, chép hết
những chỗ ấy lại, biễn soạn thành một
cuốn sách gọi Chư Kinh Phật Thuyết Địa
Ngục Tập Yếu (tập hợp những điểm
trọng yếu về địa ngục do đức Phật
đă dạy trong các kinh). Nếu chúng ta muốn biết
đức Phật đă nói về địa ngục
[như thế nào], có thể t́m trong cuốn sách ấy.
Chúng tôi cũng hy vọng tương lai có cơ duyên,
sẽ có họa sĩ phát tâm vẽ một bức
Địa Ngục Biến Tướng Đồ, vẽ
đúng theo kinh Phật. Lúc trước đă có
người vẽ, nhưng là dựa theo Ngọc Lịch
Bảo Sao của Đạo gia, dựa theo sách ấy
để vẽ rất nhiều. V́ Ngọc Lịch Bảo
Sao được lưu hành rất rộng, trong dân gian có
rất nhiều người đă từng đọc, sách
ấy có tác dụng rất lớn trong giáo dục nhân
quả. Sách ấy nói đến quả báo rất
nhiều, nhưng các quả báo ấy do nghiệp nhân ǵ
tạo ra, sách chẳng nói rơ, kinh Phật giảng về
chuyện này rất rơ. Kinh Phật dạy rơ nhân ǵ sẽ
tạo thành quả báo ǵ, nói tường tận, hay khéo
hơn sách của Đạo gia, có thể nhắc nhở
chúng ta phải nâng cao sự cảnh giác trong cuộc
sống hằng ngày, tuyệt đối đừng
tạo tội nghiệp địa ngục. Tại sao
vậy? V́ quả báo trong địa ngục khổ
lắm, rất đáng sợ, thời gian đọa
địa ngục lại dài đằng đẵng. Trong
phần sau, chúng tôi sẽ nói tới ư này.
Câu cuối cùng là “tổng chi, địa ngục
hữu tam loại” (nói chung, địa ngục có ba
loại), ở đây bèn giới thiệu đơn
giản, nói ra cả ba loại. Thứ nhất là “căn bản địa
ngục, năi bát đại địa ngục cập bát hàn
địa ngục” (căn bản địa ngục,
tức là tám đại địa ngục và tám địa
ngục lạnh), [căn bản địa ngục] là tên
chung của địa ngục, ở đây là đại
địa ngục. “Bát đại
địa ngục đối bát hàn nhi ngôn, diệc danh bát
nhiệt địa ngục” (nói có tám đại địa ngục
là so với tám địa ngục lạnh mà nói, chúng
cũng được gọi là tám ngục nóng).
Địa ngục là một biển lửa, v́ nó ở
trong ḷng đất. Hiện nay, chúng ta đều biết
trung tâm quả đất là lửa, nhiệt độ
rất cao. “Thiệm Bộ Châu
địa hạ ngũ bách do-tuần hữu địa
ngục, danh vi Đẳng Hoạt, tùng thị y thứ nhi
hạ chí đệ bát ngục, danh vi Vô Gián” (phía
dưới mặt đất Thiệm Bộ Châu năm
trăm do-tuần, có địa ngục tên là Đẳng
Hoạt. Từ đấy, lần lượt tính xuống
đến địa ngục thứ tám tên là Vô Gián).
Đây là nói tổng quát, Căn Bản địa ngục
gồm có tám chỗ, tên của tám địa ngục
ấy được ghi ở đây.
Tám địa ngục ấy có rất nhiều địa
ngục phụ, địa ngục thứ nhất tính
từ mặt đất xuống, địa ngục
thứ nhất được gọi là Đẳng
Hoạt. Nói thật ra, thọ tội trong địa
ngục này nhẹ nhất. Nặng nhất là ngục
thứ tám, tức địa ngục Vô Gián, địa
ngục Vô Gián đáng sợ nhất! “Thử bát ngục năi tằng tằng thụ
lập giả dă” (tám địa ngục ấy chồng
lên nhau theo chiều dọc), đây là từ trên xuống
dưới theo từng tầng một, địa ngục
Vô Gián ở dưới cùng, càng xuống dưới th́
sự đau khổ càng nhiều. Đây là [liệt kê tên
gọi của địa ngục] theo cách sắp xếp
theo chiều dọc.
“Cứ Câu Xá Luận kiêm khảo Đại Luận” (dựa theo luận Câu Xá cũng như tham khảo Đại Luận), Đại Luận là Đại Trí Độ Luận, “khảo” là khảo cứ (考據: tra cứu). Luận Câu Xá và Đại Luận nói rơ tám địa ngục ấy. Ngục thứ nhất trong tám ngục ấy có tên là Đẳng Hoạt. “Bỉ trung tội nhân ngộ chủng chủng chước thích ma đảo” (tội nhân trong ấy bị chém, đâm, xay, giă), “chước” (斫) là dao chém, chúng ta gọi là chém đầu. “Thích” (刺) là đâm chết, “ma đảo” (磨擣: xay, giă), chẳng khó hiểu. “Khổ cực thân tử, nhiên lănh phong xuy chi, b́ nhục hoàn sanh, đẳng ư tiền hoạt” (khổ quá chết đi, chợt có cơn gió lạnh thổi qua, thịt da sanh lại, sống lại như trước). Đây là kẻ tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác trong thế gian, đọa địa ngục do tạo tội nghiệp cực nặng, Ngũ Nghịch Thập Ác là tội nghiệp cực nặng, họ phải chịu quả báo này. Trong Phật pháp, tội này được gọi là “tánh tội”, [nghĩa là] chính cái nghiệp ấy đă là tội. Ngoài việc chịu tội trong địa ngục ra, tương lai thoát khỏi địa ngục, đă chịu hết tội này rồi, giống như bị phạt tù, bị ṭa phán nằm tù bao nhiêu năm, chịu hết h́nh phạt trong tù sẽ có thể thoát ra. Địa ngục cũng vậy, chịu hết tội xong, quư vị sẽ được ra khỏi địa ngục, ra khỏi rồi đi về đâu? Do quư vị hăy c̣n quả báo nhẹ, phải vào đường ngạ quỷ hoặc súc sanh. Cuối cùng có thể được làm thân người, đại khái lúc được làm thân người cũng rất khổ, nghèo túng, hạ tiện, rất khổ! Trong cơi súc sanh hoặc trong nhân gian th́ phải trả nợ, thiếu nợ mạng bèn đền mạng, thiếu tiền th́ đền tiền. Thật sự hiểu rơ ràng lư luận và chân tướng sự thật của nhân quả, đời này chúng ta làm người sẽ rất cẩn thận, tuyệt đối chẳng kết oán thù với người khác. Chịu thiệt tḥi một chút cũng không sao, cổ đại đức dạy chúng ta chịu thiệt tḥi là phước, tại sao vậy? Cởi mở những oán kết trước kia. Nếu tôi thiếu người ta th́ tôi phải trả, người ta thiếu tôi th́ thôi, chẳng quan tâm đến, được như vậy th́ mới có thể cởi mở mối oán kết đó, mới thuận buồm xuôi gió trên đường Bồ Đề.
Người học Phật hiện thời, rất nhiều đồng học đều biết là oan gia chủ nợ cả đống, họ t́m đến chúng ta gây rối. Nói thật thà, từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta chẳng được nghe Phật pháp, chẳng nghe giáo huấn của thánh nhân, đă tạo nghiệp quá nhiều, quá nặng! Do vậy, quư vị mới biết tại sao có những mối oán kết ấy, cổ nhân gọi việc này là “tiễn bất đoạn, lư hoàn loạn” (cắt không đứt, càng sắp xếp càng loạn), vấn đề này quá phức tạp. Sau khi học Phật, bèn dần dần hiểu rơ, khế nhập cảnh giới như kinh giáo đă nói mới thật sự biết là chớ nên làm chuyện sai trái. Làm người th́ đầu tiên là phải chấp thuận số phận của ḿnh, nhưng chẳng phải là “tinh thần A Q.”[3] như người ta thường nói, chẳng phải vậy! Cam chịu số phận là thuận theo thiên lư, đời này bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, tôi nhất định phải an phận giữ ḿnh, chẳng vượt quá bổn phận của chính ḿnh. Nếu nghèo hèn th́ ta sống đời nghèo hèn, không tạo tội nghiệp. Nếu là giàu sang, bèn sống đời giàu sang, có dư bèn giúp đỡ người khác, làm lành, tích đức, được như vậy th́ tiền đồ của quư vị sẽ từ từ nâng cao, sẽ được cát tường như ư. Nếu chẳng giữ bổn phận, lợi dụng chức quyền để thỏa măn danh lợi trước mắt, có thể làm được hay không? Chẳng làm được! Nếu có kẻ làm được, là v́ trong mạng của kẻ đó vốn sẵn có. Trong mạng ḿnh chẳng có, bất luận dùng thủ đoạn ǵ cũng không thể làm giàu, mà quư vị cũng chẳng thể thăng quan! Quư vị làm quan to cỡ nào cũng đều do trong mạng đă định sẵn, quư vị giàu tới mức nào th́ cũng là trong mạng đă định sẵn, chẳng thể vượt hơn vận mạng, chẳng có lẽ ấy! Nếu vượt hơn th́ không mắc bệnh, cũng sẽ gặp tai họa ngang trái, tại sao vậy? V́ quư vị chẳng có phước phần. Đạo lư này rất sâu, sự tướng rất phức tạp, chẳng đơn giản đâu nhé!
Nếu tôi dùng thủ đoạn không chánh đáng để đạt được quyền cao, chức trọng, của cải, giàu sang, những ǵ đạt được khi dùng thủ đoạn không chánh đáng đều là trong mạng ḿnh vốn có. Không chỉ là do trong mạng đă có, mà cái sẵn có ấy c̣n bị chiết khấu (giảm bớt). Thí dụ như trong mạng quư vị, địa vị có thể làm tới chức Bộ Trưởng, sau khi bị chiết khấu th́ sao? Quư vị chỉ làm tới chức Ty Trưởng, hoặc Xứ Trưởng, địa vị của quư vị bị hạ thấp! Thí dụ như tài sản trong mạng quư vị có một ngàn triệu đồng, quư vị dùng thủ đoạn bất chánh chỉ đạt được năm trăm triệu, bèn cảm thấy là tài giỏi lắm, nhưng thật ra đă bị chiết khấu rồi. Sai rồi! Nếu quư vị vẫn tuân thủ quy củ th́ quư vị sẽ có của cải nhiều hơn mức đó, nhiều hơn rất nhiều. Nếu có thể dùng sự giàu sang của ḿnh để giúp đỡ người nghèo khổ, làm các việc thiện, th́ chức Bộ Trưởng của quư vị có thể tăng cao lên thành chức Thủ Tướng. Thật đấy! Quư vị hăy đọc kỹ Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ biết rơ, “một miếng ăn, một miếng uống, đều là đă định sẵn”, há lẽ
nào có thể tranh giành được ư? Ngày nay luôn nói đến cạnh tranh, tranh chẳng được đâu nhé! Nếu cạnh tranh mà tranh được th́ Khổng phu tử đă cạnh tranh rồi, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đă cạnh tranh rồi. Chẳng có lẽ ấy! Do vậy, đạo lư nhân quả rất sâu, chớ nên không biết. Nhân quả từ đâu mà có, trong phần trước chúng tôi đă nói rất nhiều, Lư và Sự ấy đều xuất hiện cùng lúc với vũ trụ, phát sanh cùng lúc, nó chính là A Lại Da, do một niệm bất giác bèn sanh vô minh, vũ trụ hiện ra, giống như Huệ Năng đại sư đă nói: “Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp” (nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp), nhân quả sanh khởi cùng lúc với sự “năng sanh vạn pháp” này, chúng ta chớ nên không biết chuyện này!
Tuy chịu đau khổ vô cùng, thân thể chết đi, nhưng khi gió vừa thổi qua, kẻ đó liền sống lại. Sống lại để tiếp nhận h́nh phạt lần nữa, phải chịu h́nh phạt đến năm nào mới hết? Phiền phức lớn lắm! Người chịu tội trong mỗi địa ngục, thời gian dài ngắn chẳng giống nhau. Do tội nghiệp của họ phân ra nặng nhẹ, nên h́nh phạt của họ cũng chia thành nặng nhẹ, thời gian dài ngắn khác nhau. Tuy trong phần sau, chúng ta cũng thấy [Câu Xá Luận nói tới] một tội nhẹ, nhưng thời gian chịu tội nhẹ ấy chúng ta chẳng có cách ǵ tưởng tượng được!
Địa ngục thứ nhất là Đẳng Hoạt địa ngục. Thứ nh́ là “Hắc Thằng địa ngục: Tiên dĩ hắc thằng phược tội nhân chi thể, nhi hậu trảm cứ” (Hắc Thằng địa ngục: Trước hết dùng những sợi dây đen đủi trói chặt ḿnh mẩy tội nhân, rồi mới chém, cưa). Đó là địa ngục Hắc Thằng. Từ chỗ này, chúng ta hăy suy nghĩ, những người đó tạo tội ǵ? Đại khái là tội Ngũ Nghịch Thập Ác, tâm lại c̣n rất ương bướng, rất bạc bẽo, khắc nghiệt, rất so đo, chuyện ǵ cũng so đo. Do vậy mới có sợi dây đen chia quư vị thành từng đoạn để rồi chém, xay quư vị. Phải biết hết thảy những h́nh phạt ấy đều do nghiệp lực của chính ḿnh biến hiện ra, chẳng phải là có ai khác thiết kế. H́nh phạt trong thế gian này do người ta thiết kế, c̣n h́nh phạt trong địa ngục chẳng do người nào thiết kế, mà là hiện tượng tự nhiên. Đây là địa ngục Hắc Thằng, [người đọa địa ngục này] tội nặng hơn địa ngục thứ nhất.
Thứ ba là “Chúng Hợp địa ngục: Chúng đa khổ cụ, câu lai bức thân, hợp đảng tương hại” (Chúng Hợp địa ngục: Nhiều thứ h́nh cụ (dụng cụ tra tấn) độc ác cùng xô đến ép thân, kết bè làm hại). Chữ Đảng (黨) nghĩa là cùng nhau, cộng đồng, cùng một lúc phải chịu rất nhiều h́nh phạt, nên gọi là Chúng Hợp địa ngục. Trong địa ngục có bao nhiêu h́nh phạt bèn phải chịu cùng lúc, quư vị đều phải nhận lănh.
Thứ tư là “Hiệu Khiếu địa ngục, bức ư chúng khổ, phát bi hiệu oán khiếu chi thanh” (Hiệu Khiếu địa ngục: Bị các nỗi khổ bức bách, rú lên những tiếng đau đớn, than oán). V́ bị đau khổ cùng cực, tội nhân sẽ kêu gào, cầu xin cứu vớt. Họ không biết sám hối mà c̣n oán thán, đến khi cầu cứu xin tha bèn khởi lên ư niệm sám hối.
Thứ năm là “Đại Khiếu địa ngục: Bức ư kịch khổ, cánh phát đại khốc thanh” (Đại Khiếu địa ngục: Bị khổ sở quá mức, vang tiếng kêu khóc ầm ĩ), miêu tả t́nh trạng lúc chịu tội, do vậy mà đặt tên này.
Thứ sáu là “Viêm Nhiệt địa ngục: Hỏa tùy thân khởi, viêm xí châu vi, khổ nhiệt nan kham” (Viêm Nhiệt địa ngục: Lửa bốc từ trong thân cháy ra, ngọn lửa tỏa khắp, cái khổ v́ nóng bức khó ḷng chịu đựng nổi). Trong địa ngục, chính yếu là lửa.
Thứ bảy là “Đại Nhiệt địa ngục: Nhiệt trung chi cực, cố viết Đại Nhiệt” (Đại Nhiệt địa ngục: Sức nóng dữ dội nhất nên gọi là Đại Nhiệt).
Cuối cùng là địa ngục thứ tám, “Vô Gián địa ngục: Thụ khổ vô gián, vô hữu gián hiết” (Vô Gián địa ngục: Chịu khổ không gián đoạn, không lúc nào ngớt).
Từ sách Tam Tạng Pháp Số, chúng tôi trích ra một đoạn ghi chép từ Thành Thật Luận nói rơ về địa ngục Ngũ Vô Gián. [Ngũ Vô Gián là v́ trong địa ngục ấy có] năm loại [vô gián]. “Vô gián” là chẳng có gián đoạn. Nói cách khác, trong bảy địa ngục trước, lúc thọ tội c̣n có lúc ngưng nghỉ, c̣n địa ngục Vô Gián th́ chẳng có lúc nào được ngưng nghỉ. Từ lúc bước vào, liền bắt đầu chịu h́nh phạt, măi cho đến lúc hết tội được thoát ra th́ mới chấm dứt. Nói cách khác, sự chịu tội ấy chẳng có một giây, một phút nào chấm dứt, bảy địa ngục trước c̣n có lúc ngưng nghỉ chốc lát. Lúc đổi h́nh phạt c̣n được ngưng một lát, nhưng chỗ này th́ không.
Thứ nhất là “Thú Quả Vô Gián, vị hữu cực trọng tội giả” (Thú Quả Vô Gián ư nói kẻ có tội cực nặng), những tội cực nặng ấy đều thuộc về tội Ngũ Nghịch Thập Ác, một lát nữa, tôi sẽ giải thích cho quư vị hiểu rơ, tội cực nặng “tức hướng bỉ ngục thọ kỳ quả báo, hữu vô gián hiết” (tức là từ lúc thọ quả báo trong ngục ấy, chẳng có lúc gián đoạn,
tạm
ngưng). Đạo lư ở đây là tội này thuận theo ác nghiệp đă tạo lúc hiện tiền, tức là tội đă tạo trong hiện tại, hoặc là thuận theo sanh nghiệp của họ. Sanh nghiệp khác hiện nghiệp, tuy đều là ác nghiệp, nhưng hiện nghiệp là nghiệp đang tạo trong hiện tại, sanh nghiệp là nghiệp trong tâm. Chúng ta nói “tâm kẻ đó tàn nhẫn, thủ đoạn độc ác”, tuy chẳng thực hiện trong hiện tại, nhưng tâm kẻ ấy rất hung dữ, rất ác độc, niệm niệm đều muốn hại người, muốn mưu hại kẻ khác, tâm sân hận rất lớn, tâm tranh giành danh lợi rất mạnh. Lúc tạo tội và lúc thọ báo chẳng tách ĺa, quư vị đọa vào địa ngục [ngay trong lúc tạo tội ấy]. Thí dụ như thông thường chúng ta nói người chết đi bèn có thân Trung Ấm, phần lớn thân Trung Ấm kéo dài bốn mươi chín ngày. [Kẻ đọa] địa ngục Vô Gián chẳng có thân Trung Ấm, vừa đứt hơi thở liền vào thẳng địa ngục, chẳng có [khoảng thời gian] gián đoạn đổi thành thân Trung Ấm. Thân Trung Ấm có thể kéo dài từ bảy ngày cho tới bốn mươi chín ngày, sanh vào địa ngục Vô Gián bèn chẳng có thân Trung Ấm. Có ba loại người sau khi chết chẳng có thân Trung Ấm, quả báo lập tức hiện ra. Thứ nhất là kẻ đọa địa ngục, tức Vô Gián địa ngục, chẳng có thân Trung Ấm. Thứ nh́ là sanh lên trời, đó là kẻ có phước báo lớn, vừa dứt hơi thở liền sanh lên cơi trời. Thứ ba là văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng là vừa dứt hơi thở liền đến thế giới Cực Lạc. Ba hạng người ấy chẳng có thân Trung Ấm, ngoài ra, tất cả mọi người đều có thân trung ấm. Trung Ấm nghĩa là kẻ đó có một giai đoạn, con người có sáu nẻo luân hồi, lúc chưa vào sáu nẻo luân hồi th́ có một giai đoạn là Trung Ấm, kẻ đọa Vô Gián địa ngục chẳng có một đoạn thời gian gián cách ở giữa ấy. Đây là điều thứ nhất.
Thứ nh́ là “Thọ Khổ Vô Gián”. Điều thứ nhất là chẳng có Trung Ấm, thứ hai là chịu khổ, “vị chí bỉ ngục, thọ chư thống khổ, vô hữu gián hiết” (nghĩa là đến địa ngục ấy, chịu đựng các nỗi đau khổ chẳng hề ngưng nghỉ). Trong địa ngục này, địa ngục rất lớn, địa ngục lớn hay nhỏ cũng do nghiệp lực của chính ḿnh chiêu cảm. Trong địa ngục có bao nhiêu h́nh phạt, quư vị phải chịu bấy nhiêu khổ đau, toàn là do quư vị tạo các thứ ác nghiệp chẳng giống nhau, tất cả quả báo đều xảy đến một lượt, chẳng phải là từng thứ một, mà đều là đến một lượt, do đó sự phiền phức này rất lớn! Sự đau khổ này chẳng có lúc ngừng nghỉ, từ lúc bước vào đến lúc thoát ra mới dứt, do vậy, vô cùng phiền phức.
Thứ ba là “Thời Vô Gián”. Thời là thời gian, “vị chí bỉ ngục, thọ khổ thời tiết vô hữu gián hiết” (ư nói thời gian đọa vào địa ngục đó chẳng có gián đoạn), chẳng có lúc ngừng nghỉ, giống như chúng ta ban ngày đi làm, ban đêm c̣n được nghỉ ngơi; tù ngục thế gian ban ngày chịu h́nh phạt, ban đêm c̣n được nghỉ, c̣n địa ngục Vô Gián th́ không được ngừng nghỉ.
Thứ tư là“Mạng Vô Gián, vị bỉ địa ngục, thọ mạng nhất trung kiếp” (Mạng Vô Gián nghĩa là thọ mạng trong địa ngục ấy là một trung kiếp), quư vị thấy thọ mạng của họ là một trung kiếp. Một trung kiếp là hai mươi tiểu kiếp. Tiểu kiếp được tính như thế nào? Trong kinh Phật cũng có nhiều cách giải thích. Thuở trước, chúng tôi học Phật, thầy có dạy một cách giải thích đơn giản. Thọ mạng con người ngắn nhất là mười tuổi. Chúng ta nói tới tuổi trung b́nh th́ tuổi trung b́nh hiện nay là bảy mươi tuổi. Mười tuổi là như thế nào? Mười tuổi là ngắn nhất, mỗi một trăm năm bèn tăng lên một tuổi, tăng tới tám vạn bốn ngàn tuổi, đây là tuổi thọ dài nhất, đấy là trong Kiếp Tăng. Từ thấp dần dần tăng lên, tăng tới tám vạn bốn ngàn tuổi là cao nhất. Sau đó, tám vạn bốn ngàn tuổi cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, giảm cho đến mười tuổi. Nay chúng ta đang trong Kiếp Giảm, một lần tăng một lần giảm [như vậy] gọi là một tiểu kiếp. Hiện thời chúng ta đang thuộc kiếp giảm. Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời, tuổi thọ trung b́nh là một trăm tuổi, mỗi một trăm năm giảm một tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật tịch diệt tới nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, đă giảm hết ba mươi lần. Do đó, hiện nay tuổi thọ trung b́nh là bảy mươi tuổi. Một trăm năm sau lại giảm một tuổi, pháp vận của đức Phật Thích Ca c̣n được chín ngàn năm, sau chín ngàn năm đó c̣n bao nhiêu năm mới tới [tuổi trung b́nh] là mười tuổi? Hiện nay là bảy mươi, [cứ đếm] hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, sáu ngàn năm, [sẽ thấy] sáu ngàn năm sau bèn giảm tới mười tuổi. Sáu ngàn năm sau th́ [cứ một trăm năm] lại tăng lên một tuổi, c̣n tăng thêm ba ngàn năm nữa. Pháp vận của đức Phật Thích Ca c̣n chưa hết, lúc đó, Phật pháp c̣n chưa dứt, vẫn c̣n tồn tại trong thế gian này. Do vậy, người khác nói chuyện địa cầu hủy diệt th́ người học Phật không tin, pháp vận của đức Phật hăy c̣n chín ngàn năm, chẳng mau như vậy, nhưng chắc chắn là tai nạn sẽ xảy ra, chẳng có cách nào tránh khỏi, chẳng phải là ngày tận thế trên trái đất v́ pháp vận của đức Phật hăy c̣n.
Một chu kỳ tăng và giảm gọi là một kiếp, tức là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Quư vị nghĩ coi, thọ mạng của kẻ đọa vào địa ngục Vô Gián dài chừng nào? Hai mươi tiểu kiếp! Như vậy th́ phiền phức lớn lắm! Nếu quư vị đọa vào đó, sẽ phải đọa một thời gian dài như vậy. Quư vị thấy một tiểu kiếp là [khoảng thời gian tuổi thọ của con người] từ mười tuổi tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi, rồi từ tám vạn bốn ngàn tuổi lại giảm đến mười tuổi, đó là một tiểu kiếp. [Trải qua chu kỳ] một trăm năm tăng một tuổi rồi [một chu kỳ mỗi trăm năm] giảm một tuổi, có thể tính ra chuyện này. Tôi không giỏi toán lắm, quư vị có thể tự ḿnh tính thử xem, tính xong, quư vị sẽ biết dễ sợ lắm! Do đó, nhất định là chớ nên tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác! Người hiện thời tạo tội này rất nhiều, người nào tạo tội nhiều? Bất hiếu với cha mẹ, chẳng tôn kính sư trưởng, đó chính là tội đọa địa ngục A Tỳ. Trong tội Ngũ Nghịch, thứ nhất là giết cha, [thứ hai là] giết mẹ, bất hiếu với cha mẹ. Quư vị chưa giết cha, giết mẹ, nhưng quư vị không tôn kính cha mẹ, bất hiếu với cha mẹ, đó là tội nhẹ nhất trong tội giết cha, giết mẹ, như vậy th́ trong tám tầng địa ngục, đại khái là có thể đọa vào hai tầng trên cùng! Nếu thật sự giết cha giết mẹ, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, quư vị nghĩ có đáng sợ hay không?
Bởi lẽ đó, đời này chịu khổ một chút, không sao hết! Tuyệt đối đừng nên tạo tội nghiệp. Chịu khổ là ǵ? Chịu khổ là tiêu tội nghiệp. Đời quá khứ chẳng tích công lũy đức, chẳng tu thiện nghiệp, nên đời này mới nghèo hèn, mới khổ năo. Hiểu như thế rồi sẽ an phận nghèo hèn. Giống như Nhan Hồi, ông ta hiểu đạo lư này. So với Nhan Hồi, hiện thời chúng ta đỡ hơn ông ta quá nhiều. Đó là một vị thánh hiền, Khổng Tử hết sức tán thán. Nhan Hồi là học tṛ ngoan, ngộ tánh rất cao, Phu Tử nói chuyện, người khác chưa hiểu, ông ta đă hiểu rồi. Quư vị thấy đời sống của ông ta như sau: “Cư lậu hạng, nhất đan thực, nhất biều ẩm” (sống trong hẻm nghèo, một giỏ cơm, một bầu nước). Phu Tử nói: Nếu là người khác, sẽ cảm thấy đời sống như vậy khổ sở chẳng nói nổi, nhưng Nhan Hồi th́ mỗi ngày đều vui vẻ khôn sánh: “Hồi dă, bất cải kỳ lạc” (Nhan Hồi cũng chẳng thay đổi niềm vui ấy). Ông ta vui ở chỗ nào? Đời sống vật chất vô cùng nghèo nàn, hàn vi, nhưng đời sống tinh thần quá phong phú. Điều khiến ông ta vui với đạo, vui với thanh tịnh, vui với điều thiện! Nhan Hồi làm mẫu, nêu gương cho chúng ta. Trong Phật pháp, so giữa đời sống của đức Phật Thích Ca với Nhan Hồi, chỉ có hơn, chứ chẳng thua kém. Nhan Hồi c̣n có một căn nhà dột nát để ở, đức Phật Thích Ca chẳng có, Ngài chỉ ở dưới gốc cây, mỗi ngày ăn một bữa, phải đi khất thực. Đối với chúng ta mà nói, Ngài sống cuộc đời của kẻ ăn xin, đức Phật Thích Ca sống cuộc đời như vậy, vui sướng khôn cùng! Mỗi ngày dạy học, khuyên người ta đoạn ác tu thiện, vui sướng, không mệt chán. Đức Phật làm gương cho chúng ta thấy, chúng ta noi theo gương này để tu học, lẽ đâu chẳng vui sướng cho được? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Sanh lên trời. Nhưng đức Phật không sanh lên trời, v́ sao? Cơi trời chẳng rốt ráo, Ngài phải vượt thoát hai mươi tám tầng trời, vượt thoát mười pháp giới, Ngài đi làm Phật. “Phật” ở đây là nói theo cảnh giới; giữa các cảnh giới trong vũ trụ, đây là một cảnh giới cao nhất, Ngài đến cảnh giới đó, chẳng phải là chuyện đơn giản.
A Di Đà Phật rất phi phàm, nói tới chỗ này, tự nhiên chúng ta khởi lên niềm tôn kính, khởi lên tâm niệm cảm ân Ngài. Nếu Ngài không xây dựng thế giới Cực Lạc, tiếp dẫn chúng ta đến đó tu học, trong đời này, chúng ta muốn dựa vào sức ḿnh để đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề, mấy ai có thể làm được? Từ lúc Phật pháp được truyền vào Trung Quốc đến nay đă gần hai ngàn năm, trong hai ngàn năm ấy, người thật sự thành tựu, chúng ta chẳng có cách nào tính hết, chỉ có thể phỏng đoán sơ lược mà thôi, tối thiểu cũng phải trên ba ngàn người, tỷ lệ không cao lắm. Trong ṿng hai ngàn năm dài lâu như vậy, nhân số đông như vậy, người thật sự thành tựu là hơn ba ngàn người, đây là nói những người thành tựu thông thường. Người niệm Phật thành công không phải chỉ có bao nhiêu đó thôi, tôi cho rằng những người niệm Phật văng sanh Tịnh Độ tối thiểu cũng gấp mười lần con số ba ngàn đó, khẳng định là trên ba vạn người. Điều này đă tỏ rơ sự khó và dễ, tu các pháp môn khác khó khăn, tu pháp môn Niệm Phật dễ dàng. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta bỏ pháp môn này, làm sao quư vị thành tựu cho được? Chẳng thể đoạn phiền năo! Pháp môn này không cần đoạn phiền năo, đới nghiệp văng sanh, tuy là sanh trong cơi Đồng Cư, nhưng cơi Đồng Cư chính là cơi Thật Báo. Trong hết thảy các kinh khác, đức Phật chẳng nói đến chuyện này, chỉ riêng bộ kinh này là có. B́nh đẳng chẳng khác sai biệt, sai biệt bằng với b́nh đẳng, đây là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn. Các bạn đồng học chúng ta đă hiểu rơ ràng, rành rẽ, từ hôm nay trở đi phải đặt A Di Đà Phật trong tâm ḿnh, dẹp sạch hết những rác rưởi trong tâm. Những tâm niệm bất kể thiện, ác, tốt, xấu, tất cả đều quét sạch hết. Trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng chẳng có, được như vậy th́ quư vị sẽ nắm chắc Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắc văng sanh. Lúc nào sẽ văng sanh cơi Cực Lạc chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, chắc chắn được văng sanh, tại sao không chịu làm? Đây là chuyện ai cũng có thể làm được! Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói rơ ràng “hết thảy chúng sanh vốn đều là Phật”, nghĩa là nói quư vị vốn là Phật, bây giờ đặt A Di Đà Phật trong tâm, cũng tức là nói “đời này tôi nhất định sẽ làm Phật”. Quư vị thấy [chúng ta] vốn là Phật, lại hạ quyết tâm nhất định phải làm Phật, c̣n sai chạy chỗ nào nữa chăng? Khẳng định là quư vị sẽ làm Phật. Học Phật có lợi ích ǵ? Làm Phật có lợi ích ǵ? Bộ kinh này nói rất thấu triệt, một bộ kinh này là đủ rồi, [học một bộ kinh này] sẽ hiểu rơ ràng, sẽ rành rẽ.
Mọi người đều biết hiện thời tai nạn xảy ra rất nhiều, cũng có rất nhiều người tiết lộ tin tức cho tôi biết. Tự độ như thế nào? Cũng là làm thế nào để tự cứu ḿnh, làm thế nào cứu người nhà, làm thế nào cứu bà con, bạn bè, giúp xă hội này, giúp các chúng sanh đang chịu khổ nạn trên thế giới này? Một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật là đủ rồi! Do vậy, hiện nay tôi đang nóng ḷng làm sao để có thể giảng hoàn tất bộ kinh này sớm hơn. Hy vọng mỗi ngày tôi có thể giảng bốn giờ, dự tính tới khoảng giữa năm sau có thể giảng xong. Đối với địa phương Hương Cảng này, chỗ tôi ở cách nơi đây khá xa, giao thông thường bị kẹt xe, chẳng thuận tiện, buổi trưa chẳng có thời gian nghỉ ngơi. Nếu buổi trưa có thể có chỗ rất an tịnh để nghỉ ngơi một giờ, buổi sáng tôi giảng hai tiếng đồng hồ, buổi chiều giảng hai giờ, được như vậy th́ sẽ giảng nhanh hơn. Nếu tôi ở Úc hoặc ở Mă Lai Á, chỗ tôi ở rất gần pḥng thâu h́nh, nên đều có thể giảng bốn giờ đồng hồ, rút ngắn thời gian. Chỉ có thật sự nghe hiểu bộ kinh này, thật sự hiểu rơ ràng, củng cố vững chắc ḷng tin, củng cố tâm nguyện của quư vị, quư vị mới cam tâm hết ḷng niệm câu Phật hiệu này đến cùng. Buông xuống vạn duyên, đối với hết thảy sự việc trong thế gian, tùy duyên, đừng phan duyên, được như vậy, quư vị sẽ tự tại biết bao! Thật sự là hạnh phúc, thật sự là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người. Trong vũ trụ này, tánh, tướng, Lư, Sự, nhân, quả, đều thông suốt, tự tại biết bao.
Điều thứ năm trong Ngũ Vô Gián là “H́nh Vô Gián”. H́nh là thân thể, “vị bỉ địa ngục thọ tội chúng sanh, sanh nhi phục tử, tử dĩ hoàn sanh, thân h́nh vô hữu gián yết” (ư nói: Chúng sanh thọ tội trong địa ngục, sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh, thân h́nh chẳng có lúc gián đoạn). [Chúng sanh trong] địa ngục là hóa sanh, do tâm tưởng của họ biến hóa ra. Địa ngục lớn chừng nào, thân thể của họ sẽ lớn chừng ấy. Do đó, đối với những h́nh phạt trong địa ngục, quư vị đều phải chịu phạt cùng lúc, v́ thân thể của quư vị lớn bằng địa ngục. Như trong kinh đă nói: “Địa ngục quảng đại, bát vạn do-tuần” (địa ngục rộng lớn tám vạn do-tuần), thân thể của quư vị cũng là tám vạn do-tuần, các h́nh phạt trong địa ngục chẳng thể tránh được thứ nào! Nhưng sau khi chết đi, gió vừa thổi qua liền sống lại. Sống lại liền phải tiếp tục chịu tội, chẳng ngưng nghỉ. Chẳng phải là chết đi sống lại c̣n có một thời gian có thể tạm dừng, chẳng hề ngưng nghỉ! Chịu những h́nh phạt ấy, thân h́nh chịu khổ chẳng gián đoạn. Đó là địa ngục Ngũ Vô Gián, trong đoạn này, chúng tôi giới thiệu đơn giản tới đây.
Xem tiếp đoạn kế, “dĩ thượng bát đại địa ngục ngoại, cánh hữu bát hàn băng ngục” (phía ngoài tám địa ngục trên đây, lại có tám địa ngục lạnh), địa ngục Hàn Băng. Tám đại địa ngục nói trên là địa ngục nóng, đó là phần chính, xếp theo chiều dọc từng tầng từng tầng xếp lớp. Tám địa ngục lạnh ngang hàng, xếp theo chiều ngang; do vậy “cánh hữu bát hàn băng ngục, y thứ hoành liệt” (lại có tám địa ngục lạnh hàn băng, xếp theo chiều ngang theo thứ tự). Tên gọi của các địa ngục ấy quá nửa là dựa theo t́nh h́nh của tội nhân để đặt tên tức là dùng h́nh dung từ để đặt tên.
Thứ nhất là “Ngạch Bộ Đà”. Ngạch Bộ Đà là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Pháo (皰: phồng rộp lên), “nghiêm hàn bức thân, thể thượng sanh pháo” (Thân bị rét cóng nên sưng phồng lên). Giống như ở Trung Quốc, vào mùa Đông chúng ta có thể thấy [hiện tượng được gọi là] “đống sang” (凍瘡: bị thương v́ lạnh cóng, frost bite), da sưng phồng lên. Lúc nhỏ, chúng tôi cũng đă bị rồi, ở nhà quê thiết bị giữ ấm chẳng đủ nên thân sưng phồng lên. Ngạch Bộ Đà tức là một loại thương tích v́ lạnh cóng, đó là c̣n nhẹ.
Nghiêm trọng hơn nữa là “Ni Lạt Bộ Đà, cực hàn bức thân, thể phân pháo liệt” (Ni Lạt Bộ Đà: Thân bị rét quá, ḿnh mẩy nứt nẻ, vỡ ra). Lúc lạnh hơn nữa th́ vết thương v́ lạnh cóng sẽ vỡ ra, vỡ ra th́ càng đau đớn.
Thứ ba là “A La La”, đây là h́nh dung từ, quá lạnh đến nỗi trong miệng phát ra âm thanh kỳ lạ, [dùng từ ngữ này] để h́nh dung sự khổ trong địa ngục này.
Thứ tư là “A Bà Bà”, thứ năm là “Hổ Hổ Bà”, đều là dùng âm thanh để h́nh dung sự đau khổ khi bị lạnh cóng.
Thứ sáu là “Ốt Bát La”, Ốt Bát La (Utpala) dịch sang nghĩa tiếng Hán là hoa sen xanh, “nghiêm hàn bức bách, thân phân” (bị lạnh buốt quá mức, ḿnh mẩy nứt gẫy), lúc thân thể bị lạnh quá nên bị nứt toác ra, nứt toác ra giống như thế nào? Giống như hoa sen xanh, đây là dùng hoa sen để h́nh dung.
Thứ bảy là “Bát Đặc Ma” (Padma) nghĩa là hoa sen đỏ. Thân thể găy nát [tươm máu] như hoa sen hồng, nghiêm trọng hơn loại trước.
Thứ tám là nặng nhất “Ma Ha Bát Đặc La”, nghĩa là hoa sen đỏ lớn, thân thể găy nát như hoa sen đỏ lớn.
Ở đây, tôi bổ sung một câu, thọ mạng ngắn nhất trong địa ngục, nếu dùng thời gian trong cơi người để tính, ngắn nhất là ba ngàn bảy trăm năm mươi năm bằng một ngày ở địa ngục. Nếu tính như trong nhân gian, một tháng có ba mươi ngày, một năm mười hai tháng, hăy nhớ một ngày ở địa ngục bằng ba ngàn bảy trăm năm mươi năm trong cơi người. Trung Quốc thường nói có năm ngàn năm lịch sử, c̣n chưa bằng hai ngày trong địa ngục! Thọ mạng ở địa ngục dài bao nhiêu? Trong phần trước đă nói là một trung kiếp, tức hai mươi tiểu kiếp. Có người dùng toán học để tính, thọ mạng ngắn nhất ở địa ngục là một vạn tuổi, như tôi vừa nói hồi năy, một ngày ở địa ngục bằng ba ngàn bảy trăm năm mươi năm [trong nhân gian], vậy th́ một vạn tuổi trong địa ngục bằng mười ba tỷ rưỡi năm trong nhân gian (13.500.000.000 năm)! Quư vị thấy đọa địa ngục rất dễ, thoát ra quá khó! Cách tính toán ấy có chép trong Phật Học Đại Tự Điển, quư vị có thể xem. Tạo tội nghiệp ấy làm chi? Ai khiến quư vị tạo tội ấy? Đến lúc nào mới có thể thoát khỏi?
Nói theo Lư, Lư ở đây là chân lư, chẳng phải là giả, địa ngục hoàn toàn là biến hóa. Lục đạo của chúng ta cũng là huyễn hóa, khi giác ngộ, nó sẽ không c̣n nữa. Nếu quư vị chấp trước, nếu quư vị chưa giác ngộ, nó là có thật. Giống như ǵ? Giống như nằm mộng, mộng là thật hay giả? Lúc quư vị nằm mộng, mộng ấy rất giống thật, vô cùng chân thật, đến lúc quư vị tỉnh mộng, mới biết nó là giả. Đức Phật dạy “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, lục đạo chẳng thật, địa ngục cũng thuộc về lục đạo. Trong Chứng Đạo Ca, thiền sư Vĩnh Gia đă nói rất hay: “Trong mộng rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Lúc quư vị chưa giác ngộ, nó là thật sự có, lục đạo đều có; hễ quư vị giác ngộ, lục đạo chẳng c̣n nữa. Giác ngộ như thế nào? Trừ học Phật ra, quư vị chẳng có cách nào giác ngộ! Thuở Phật Thích Ca tại thế, có thể nói Ấn Độ thời ấy là một nước có nhiều tôn giáo nhất trên toàn thế giới, [là một nước có] tôn giáo và triết học phát triển nhất. Giới học thuật và tôn giáo của họ đều tu Thiền Định, Thiền Định ở mức độ cao có thể đột phá các tầng cấp không gian, nay ta gọi là “các chiều không gian”, họ có thể đột phá. Khi chiều không gian bị đột phá, các nhà khoa học hiện thời đă chứng thực chuyện này, không gian chẳng tồn tại, mà thời gian cũng chẳng tồn tại. Trong phần trước, chúng tôi có nói thời gian một trăm ba mươi lăm ức năm là thọ mạng của người đọa địa ngục. Do sau khi giác ngộ, không gian và thời gian đều chẳng c̣n nữa, nên lục đạo chẳng c̣n nữa. Nếu mức Thiền Định sâu hơn bèn có thể đột phá nhiều hơn, mười pháp giới chẳng c̣n, lúc đó cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai sẽ hiện tiền. Cơi Thật Báo là vô lượng thọ. Nếu tập khí vô thỉ vô minh cũng đoạn, lúc đó sẽ xuất hiện một cảnh giới mới, cơi Thật Báo cũng không c̣n nữa, đúng như đức Phật đă nói “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, ngay cả cơi Thật Báo Độ cũng mất luôn, lúc đó sẽ có hiện tượng ǵ xảy ra? Quay về tự tánh, Thường Tịch Quang hiện tiền là quay về tự tánh. V́ vậy, chỉ có trong Phật pháp mới đạt đến cảnh giới rốt ráo viên măn này.
Hiện nay khoa học, triết học được tôn sùng coi trọng. Khoa học và Triết học càng ngày càng tiếp cận Đại Thừa. V́ thế, vào thập niên bảy mươi trong thế kỷ hai mươi này, tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Joseph Toynbee) ở Anh đă nói một câu rất có lư. Ông ta nói: “Muốn giải quyết vấn đề xă hội của thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa Phật pháp mà thôi”. Học thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật pháp đều ở Trung Quốc. Đại Thừa Phật pháp ở Trung Quốc đă lâu hai ngàn năm, thành tích vô cùng ưu tú, người Trung Quốc phải nên học hỏi cho tốt để giải quyết những vấn đề của chính ḿnh, vấn đề gia đ́nh, vấn đề xă hội, vấn đề quốc gia, thậm chí vấn đề của toàn thế giới. Chúng ta phải trân quư kho tàng quư báu này do tổ tiên, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức để lại cho chúng ta, chúng ta thọ dụng chẳng hết. Nhưng muốn hưởng thụ kho tàng này, cần phải có điều kiện căn bản, tức là đức hạnh. Tổ tiên ban cho chúng ta luân thường, đạo đức, chúng ta phải thực hiện. Phật, Bồ tát ban cho chúng ta Ngũ Giới, Thập Thiện, chúng ta cũng phải thực hiện. Sau đó, dùng thời gian hai năm để học văn chương Văn Ngôn, được như vậy th́ quư vị mới có phần nơi kho tàng ấy. Ai thật sự có khả năng này, tôi sẽ tặng sách cho người đó. Gần đây, tôi đặt Thế Giới Thư Cục ở Đài Loan in một trăm bộ Tứ Khố Hội Yếu. Nếu có vị nào thật sự đă có gốc rễ luân lư, đạo đức, mà văn chương Văn Ngôn cũng học giỏi rồi, quư vị hăy viết thư cho tôi, nếu tôi cảm thấy văn chương Văn Ngôn của quư vị chẳng có vấn đề ǵ, tôi sẽ gởi tặng quư vị một bộ sách, bộ sách ấy hết sức hay! Tôi c̣n có thể tặng quư vị một bộ Đại Tạng Kinh, đây là Phật pháp. Những thứ thuộc về truyền thống Trung Quốc [đều ở trong] Tứ Khố Hội Yếu, tôi sẽ tặng quư vị một bộ. Quư vị hăy học cho tốt, học trong ṿng mười năm. Nếu quư vị học Nho giáo, sẽ thành thánh hiền. Nếu quư vị học Đạo giáo, sẽ thành thần tiên. Nếu quư vị học Phật pháp, sẽ là Phật, Bồ Tát. Tôi sẽ cúng dường quư vị những bộ sách ấy, hy vọng mọi người hăy sốt sắng nỗ lực.
Chúng ta hăy xem tiếp “Thử thượng vi căn bản địa ngục, hạ tự cận biên địa ngục, cô độc địa ngục” (Trên đây là căn bản địa ngục, tiếp theo đây, sẽ lược thuật về cận biên địa ngục và cô độc địa ngục). Đây là những địa ngục nhỏ ở cạnh căn bản địa ngục, dành cho những kẻ tạo tội nhẹ hơn một chút, họ tạo tội ǵ? Hết thảy đều chẳng tách rời Ngũ Nghịch Thập Ác. V́ thế, chúng tôi thấy phải để cho các vị pháp sư trẻ tuổi giảng kỹ tội Ngũ Nghịch Thập Ác cho quư vị biết; có giảng kỹ về Ngũ Nghịch Thập Ác th́ quư vị mới biết rơ. Thứ nh́ là “thập lục du tằng địa ngục” (mười sáu du tằng địa ngục), đây là cận biên địa ngục, ở cạnh đại địa ngục. “Bát đại địa ngục trung, mỗi nhất đại ngục giai hữu tứ môn” (trong số tám đại địa ngục nói trên, mỗi đại địa ngục đều có bốn cửa), giống như cửa thành, có bốn cửa. “Mỗi nhất môn ngoại, mỗi phụ tăng tứ ngục” (ngoài mỗi cửa lại có thêm bốn ngục phụ), “danh vi” (tên là), ngục thứ nhất mang tên “Đường Ổi Tăng”. Chữ “Đường Ổi (Úy)” (煻煨) này chắc nhiều người không hiểu, nó có nghĩa là lửa đốt bằng than, bên ngoài [lớp tro] nh́n không thấy lửa, nhưng bên trong có lửa. Bên ngoài là một lớp tro, bên trong rất nóng. Lúc nhỏ, chúng tôi ở thôn quê, sống trong làng quê, trẻ nhỏ hái các loại dưa, khoai lang ngoài đồng đem về vùi vào bếp tro. Trong bếp nấu cơm xong c̣n tro, vùi khoai vào đống tro ấy, hai giờ sau khoai sẽ chín, chín nhừ luôn. Quư vị thấy tro đó nóng ghê lắm, vùi khoai trong tro nóng khoảng hai giờ là chín khét. Nếu người ta ở trong đống tro đó th́ sao? Cũng sẽ chín khét luôn. Đây là một loại địa ngục nhỏ. Thứ hai là “Thi Phẩn Tăng”, phân đă hôi thối khó ngửi. Chẳng phải là phân người, mà là phân của xác chết, quư vị mới có thể h́nh dung sự hôi thối ấy! Trước kia, thầy Lư giảng kinh nói thầy không sợ địa ngục, nhưng khi nói tới địa ngục Thi Phẩn này, thầy rùng ḿnh. Thầy nói địa ngục này quá đáng sợ, con người bị chôn trong đống phân xác chết, cảm giác đó quả thật rất khủng khiếp, trông thấy liền kinh hăi, những thứ khác th́ c̣n được, không dễ sợ. Thứ ba là “Phong Nhận Tăng”, [h́nh dung] những mũi dao giống như núi đao, rừng kiếm, [người ta thường nói] “lên núi đao, rừng kiếm” tức là thuộc loại này. Thứ tư là “Liệt Hà Tăng”, sông ở đây là sông máu, người rơi vào đó bị chết ngộp. Một đại địa ngục có bốn cửa, [phía ngoài] mỗi cửa có bốn ngục phụ, nên bốn cửa có tất cả mười sáu ngục. Mười sáu ngục ấy gọi là Du Tằng địa ngục. Tám đại địa ngục có tất cả một trăm hai mươi tám ngục phụ, [các ngục phụ ấy] c̣n gọi là Cận Biên địa ngục, nghĩa là những địa ngục nhỏ ở kế bên địa ngục lớn. Đây là loại thứ nh́.
C̣n một loại nữa, tội nhẹ hơn một chút, gọi là Cô Độc địa ngục. “Cô độc địa ngục, tại sơn gian, khoáng dă, thụ hạ, không trung. Kỳ loại vô số, thọ khổ vô lượng. Địa ngục khổ quả, kỳ tối trọng xứ, nhất nhật chi trung bát vạn tứ thiên sanh tử, kinh kiếp vô lượng” (Cô Độc địa ngục ở giữa núi, đồng hoang, dưới cội cây, hoặc không trung. Loại này có vô số, chịu khổ vô lượng. Chỗ khổ quả nặng nề nhất trong địa ngục là một ngày có đến tám vạn bốn ngàn lần chết đi, sống lại, trải qua vô lượng kiếp). Tám vạn bốn ngàn lần chết đi sống lại nghĩa là thọ tội xong người ấy liền chết, gió thổi qua bèn sống lại, sống lại để tiếp tục thọ tội, mỗi ngày cứ lập đi lập lại [như vậy] để thọ tội này. Chúng ta biết điều khổ nhất trong thế gian này là ǵ? Là sanh tử, sanh ra đă khổ, mà chết càng khổ hơn! Cớ sao biết sanh tử là khổ? Quư vị thấy trẻ thơ mới sanh, quư vị hăy quan sát kỹ, trẻ thơ vừa sanh ra liền khóc oa oa. Tại sao vậy? V́ khổ quá! Nếu nó không khổ, nó khóc để làm ǵ? Quư vị có thấy trẻ con vừa sanh ra liền cười h́ h́ bao giờ chưa? Đó là vui. Nếu vui th́ nó mới cười; nếu khổ th́ nó khóc [chứ cười sao nổi]. Từ chỗ này, chúng ta lắng ḷng quan sát, sẽ biết nó rất khổ, vô cùng đau khổ. Quư vị thấy lúc người ta chết, chỉ có người niệm Phật văng sanh, cả đời tích lũy công đức th́ lúc người ấy chết mới cười h́ h́ ra đi. Thông thường, lúc người ta chết, gương mặt rất dễ sợ, khổ chẳng nói nổi mà! Nỗi khổ sanh lăo bệnh tử, hễ lắng ḷng quan sát, quư vị sẽ biết. Nỗi khổ lớn nhất trong đời người là tử khổ, không biết khổ gấp bao nhiêu lần nỗi khổ lúc bệnh. Mỗi ngày chết đi sống lại tám vạn bốn ngàn lần, làm sao chịu nổi? Đó là nỗi khổ trong địa ngục, trải qua vô lượng kiếp.
Sách Phụ Hoằng Kư nói nghiệp nhân của tội này: “Phụ Hoằng Kư vân: “Tác thượng phẩm Ngũ Nghịch, Thập Ác giả cảm chi (chỉ tối cực ác nghịch giả)” (Sách Phụ Hoằng Kư chép: “Kẻ tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác thượng phẩm (chỉ tạo tội ác nghịch nặng nhất) sẽ cảm lấy [quả địa ngục này] (chỉ kẻ ác nghịch tột bậc)”). Tội Ngũ Nghịch Thập Ác nặng nhất sẽ đọa vào Vô Gián địa ngục. Ở đây, chúng tôi nói sơ sài mà thôi, hai danh từ này nhất định phải t́m thời gian để tŕnh bày kỹ càng với quư vị, đây là giáo dục nhân quả. Trong tội Ngũ Nghịch, “giết cha, giết mẹ” là hai tội đầu. Thứ ba là “giết A La Hán”, trong thế gian này, A La Hán có phước báo, quư vị chẳng giết nổi. Tội giống như tội này được gọi là “đẳng lưu tội” (tội tương đương), tội ǵ vậy? Giết thầy. Phàm những người theo đuổi công tác giáo dục luân lư, đạo đức, bất luận tại gia hay xuất gia, nam, nữ, già, trẻ, nếu quư vị giết họ th́ tội tương đương với tội giết A La Hán, chúng ta phải biết điều này. V́ sao? Những người ấy xả ḿnh v́ người, chẳng v́ chính ḿnh. Tự hành, dạy người khác, chính họ học thánh, học hiền, học Bồ Tát, học Phật, làm gương mẫu đạo đức cho đại chúng trong xă hội. Nếu quư vị giết họ, tổn thương họ, tạo tội không phải là tạo tội đối với cá nhân họ. Những người như họ, dù quư vị giết họ, họ cũng chẳng trách quư vị, họ cũng sẽ không trả thù, cũng không ghi nhớ hận thù. Do đó, chẳng phải là có tội đối với họ, mà là có tội với ai? Có tội đối với những kẻ được họ dạy dỗ, giáo dục.
Quư vị giết một vị thầy giáo giỏi, cơ hội được giáo dục của nhiều người bị đoạn dứt, sự giáo huấn của họ có ảnh hưởng bao lớn, thời gian ảnh hưởng bao lâu, món nợ này sẽ tính trên thân quư vị. Chúng ta gọi những vị ấy là “thiện tri thức”. Luận tội chẳng dính líu ǵ đến vị thiện tri thức hay vị thầy ấy. Vị thầy ấy thấy chuyện bị giết chẳng sao cả, tuyệt đối chẳng trách quư vị, chẳng ghim chuyện bị hại trong ḷng. Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đời trước hành Bồ Tát đạo, làm Nhẫn Nhục Tiên Nhân. Quư vị thấy vua Ca Lợi róc thịt trên thân thể Ngài, hại Ngài, thuộc loại tội này. Vua Ca Lợi đọa địa ngục, sau khi thoát khỏi địa ngục, lời nguyện của Nhẫn Nhục Tiên Nhân đă phát thuở đó đă trở thành hiện thực. Ngài nói: “Trong tương lai, lúc tôi thành Phật, người đầu tiên tôi độ sẽ là vua Ca Lợi”. Quư vị thấy Ngài chẳng kết tội nhà vua, cớ sao vua Ca Lợi đọa địa ngục? Do vua phạm tội đối với chúng sanh, chúng sanh bị mất đi một vị thầy tốt, đoạn mất Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh, tội ấy phiền phức lớn lắm! Giết người là tội nhỏ, đoạn mất huệ mạng của người ta mắc tội lớn lắm. Do vậy chúng ta phải hiểu sự luận tội này, phải hiểu rơ ràng, đối với một người th́ tội nhỏ, đối với chúng sanh th́ tội lớn. Quư vị giết hại cha mẹ, tại sao tội đó rất nặng? Thứ nhất, cha mẹ có ân dưỡng dục với chúng ta, quư vị không biết báo ân mà c̣n báo oán, c̣n giết hại cha mẹ, đó là tánh tội. Thứ nh́, quư vị gây ảnh hưởng xấu cảnh giới xă hội: Nếu cha mẹ kẻ khác giáo huấn con cái nghiêm khắc đôi chút, hừm, [đứa con ấy] thấy quư vị giết cha mẹ, nó cũng bắt chước giết cha mẹ. Lề thói ấy một khi được khai mào, làm sao chịu nổi? Quư vị có phải chịu trách nhiệm nhân quả hay không? Do đó, phải nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội, chớ nên nêu gương xấu. Tạo gương xấu sẽ có ảnh hưởng rất lớn, tội đó nặng lắm! Sự phán định tội có đạo lư như vậy đó, chúng ta phải hiểu đạo lư này, phải hiểu rơ ràng.
Thứ tư là “làm thân Phật chảy
máu”. Hiện thời, đức Phật chẳng tại thế, điều này chỉ chuyện ǵ? Phá hoại Phật giáo là tội tương đương với tội này, tức là tội giống như tội làm thân Phật chảy máu, [tức là tội] do ác niệm, ác ư mà phá hoại Phật giáo. Phật giáo là nền giáo dục tốt đẹp trong thế gian, chúng ta phải biết điều này. Nó có lợi ích to lớn đối với hết thảy đại chúng, giúp chúng sanh trong đời này siêu phàm nhập thánh, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. T́m đâu ra một nền nền giáo dục tốt đẹp dường ấy? Quư vị phá hoại Phật giáo, khiến cho nhiều người không được hưởng sự giáo dục tốt đẹp, đoạn dứt cơ hội thoát khỏi luân hồi của rất nhiều người. V́ lẽ đó, tội này là tội đọa địa ngục A Tỳ. Địa ngục A Tỳ tức là địa ngục Vô Gián. [Tội làm thân Phật chảy máu] là tội đọa địa ngục Vô Gián.
Thứ năm là “phá ḥa hợp Tăng”, tức là phá hoại Tăng đoàn. Tăng đoàn [nói ở đây] nhất định phải là Tăng đoàn tu Lục Ḥa Kính. Nếu chẳng có Lục Ḥa Kính, chẳng thể gọi là Tăng đoàn. Thuở tôi mới học Phật, khi ấy, đă đi giảng kinh, nhằm lúc bốn mươi mấy tuổi. Tôi theo thầy Lư học Phật pháp, khi đó, thầy Lư quy định nếu chưa đầy bốn mươi tuổi, chẳng được đi ra ngoài giảng kinh, chỉ được luyện tập giảng kinh trong nhà. Đài Trung có hai nơi luyện tập giảng kinh, một là chùa Linh Sơn, hai là Đài Trung Liên Xă, hai nơi ấy là nơi thầy Lư huấn luyện học tṛ học giảng kinh. Chùa Linh Sơn là [đạo tràng] của phái nam, Đài Trung Liên Xă là [đạo tràng] của phái nữ. Mỗi tuần, bốn người lên giảng đài giảng một lần: Buổi sáng hai người, buổi chiều hai người. Những người không lên giảng đài luyện tập th́ không đi giảng ở những nơi khác. Không chỉ chẳng được ra ngoài giảng, mà phải trên bốn mươi tuổi mới được ra ngoài giảng. Người quá trẻ sợ bị xă hội dụ dỗ, mê hoặc, nên thầy [đặt ra luật lệ] nghiêm ngặt này để ngăn ngừa. Phong khí xă hội ngày nay so với thuở trước ngày càng đi xuống. Thế hệ của chúng tôi cách biệt hiện tại sáu mươi năm, phong khí xă hội sáu mươi năm trước kể ra cũng c̣n khá. Hiện thời, sức dụ dỗ quá mạnh, nên bốn chục tuổi vẫn chưa được, có lẽ tối thiểu cũng phải là sáu mươi tuổi th́ mới không bị dụ dỗ, mê hoặc, dưới sáu mươi tuổi vẫn không chắc. Thầy Lư yêu cầu chúng tôi ở mức bốn mươi tuổi, c̣n nay chúng tôi yêu cầu các vị đồng học ở mức sáu mươi tuổi, thật vậy, chẳng giả! Do đó, người thật sự y giáo phụng hành, thật sự hoằng pháp lợi sanh, bất luận tại gia hay xuất gia, nam, nữ, già, trẻ, chớ nên giết hại những người ấy. Nếu giết hại họ, phải đọa địa ngục Vô Gián. Đó là nói về tội Ngũ Nghịch. Đối với Thập Ác, trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo có nói: Khi quư vị có ác ư sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham, sân, và si, trong tâm quư vị có mười thứ ấy [th́ là Thập Ác]. Mười thứ ấy càng mạnh th́ tội càng nặng. Mười quan niệm ấy nhẹ th́ quư vị tạo nghiệp nhẹ. Kết tội nặng hay nhẹ dựa trên quan niệm của quư vị, sau đó mới xét sự việc quư vị đă làm, dựa trên hai phương diện này để luận tội. Đây là đoạn thứ nhất nói về địa ngục. Phải nhớ câu cuối cùng trong sách Phụ Hoằng Kư là: “Người tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác thượng phẩm chiêu cảm [quả báo địa ngục Vô Gián]”. Trong ba cơi ác, đây là nói về cơi thứ nhất, tức cơi địa ngục.
Lại xem tiếp cơi thứ hai: “Ngạ Quỷ giả, Đại Thừa
Nghĩa
Chương bát viết: Dĩ tùng tha cầu cố,
danh ngạ
quỷ” (cơi Ngạ Quỷ, trong quyển tám sách Đại Thừa Nghĩa Chương, chữ “ngạ quỷ” được giảng như sau: “Do cầu nơi người khác nên gọi là ngạ quỷ”). Ngạ quỷ phải thường xin thức ăn của người khác, thường phải chịu đói khổ, nên gọi là Ngạ Quỷ (quỷ đói). “Hựu thường cơ hư, cố danh vi Ngạ. Khủng khiếp, đa úy, cố danh vi Quỷ” (Lại thường đói khát, nên gọi là Ngạ, khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi, nên gọi là Quỷ). Hiểu điều này, con người khỏi phải sợ quỷ, có một câu ngạn ngữ rất có lư: “Người có ba phần sợ quỷ, quỷ có tới bảy phần sợ người”. Do đó, quỷ sợ người nhiều hơn là người sợ quỷ. Nếu quư vị không hiểu đạo lư này, sẽ bị quỷ dọa, rất oan uổng. Nếu quư vị nói lớn tiếng một chút th́ quỷ chạy mất. Do đó phải biết quỷ c̣n nhát gan hơn con người, con người to gan hơn quỷ. Do đây là hiểu lầm, nên quư vị mới sợ quỷ. Nếu quư vị liễu giải chân tướng sự thật, từ nay trở đi chẳng sợ quỷ nữa! Chỉ có quỷ sợ người,
lẽ nào người lại sợ quỷ? Nếu quư vị sợ quỷ, tức là c̣n thua quỷ, sai mất rồi!
“Bà Sa Luận vân” (Tỳ Bà Sa Luận chép), trong luận Đại Tỳ Bà Sa có ghi: “Quỷ giả úy dă, vị hư khiếp đa úy” (Quỷ là sợ, tức là khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi). Câu này nói rơ tâm của quỷ luôn luôn sợ sệt, cái ǵ cũng sợ. Do đó, mới có câu ngạn ngữ: “Nhát gan như quỷ”. Câu ấy rất đúng, nhát gan giống như quỷ vậy, chuyện ǵ cũng không dám làm, cái ǵ cũng sợ! “Hựu oai dă, năng linh tha úy kỳ oai” (Quỷ cũng có nghĩa là oai, v́ có thể khiến kẻ khác sợ cái oai của ḿnh), đây là quỷ nhát gan; con
quỷ nhát gan sợ [những con] quỷ khác. “Hựu hy cầu danh quỷ, vị bỉ ngạ quỷ hằng tùng tha nhân, hy cầu ẩm thực tự dĩ hoạt tánh mạng” (Lại do mong cầu nên gọi là Quỷ, tức là: Loài ngạ quỷ thường đi theo người khác, mong được thức ăn để duy tŕ tánh mạng). Quỷ đến kiếm người ta nhất định là phải có điều cầu xin ǵ đó. Các đồng tu học Phật trong quá khứ cũng thường nằm mộng thấy người nhà, quyến thuộc, nhưng lâu quá nên đă quên mất, mà cũng chẳng mộng thấy, chứ lúc học Phật chưa được bao lâu th́ thường mộng thấy người nhà, quyến thuộc. V́ sao? Kinh Địa Tạng giải thích rất rơ ràng, đó là v́ quư vị học Phật bèn có khả năng giúp đỡ họ, nên họ đến t́m quư vị. Lúc quư vị chưa học Phật, họ không t́m quư vị, có t́m th́ cũng chẳng giúp được v́ quư vị không tin. Họ t́m quư vị để làm ǵ? Để xin quư vị đốt cho họ một số tiền giấy, cúng dường họ chút ít, đến xin những thứ đó, xin quư vị giúp đỡ, chúng ta phải hiểu điều này. Mộng thấy người nhà, quyến thuộc đă qua đời, người học Phật chúng ta bèn vào ngày mồng Một, ngày Rằm cúng ít đồ chay cho họ, giống như mời họ dùng cơm, tốt nhất là tụng kinh hồi hướng cho họ, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thay họ xin thọ Tam Quy, giảng Ngũ Giới, Thập Thiện cho họ, hay giảng Đệ Tử Quy cho họ đều được. Những điều ấy sẽ giúp họ rất nhiều, họ c̣n cảm ơn nữa. Đối với chúng ta, đây là cơ hội giáo dục, nếu họ không đến t́m chúng ta, chúng ta không biết, họ đến t́m th́ chúng ta nên làm cho họ. Mỗi ngày, chúng ta niệm Phật, tụng kinh, hoặc nghe giảng kinh đều nên hồi hướng công đức cho họ. Đây là nói rơ: Do họ cần, nên đến xin quư vị giúp đỡ. Lúc chưa học Phật, chẳng thường nằm mộng thấy, quư vị chẳng có cách nào giúp họ, mà cũng không hiểu những sự thật này. Do quư vị rất khó tiếp nhận, nên họ không đến t́m quư vị.
“Hựu vân, hữu thuyết cơ khát tăng” (Luận c̣n viết thêm: “Có thuyết bảo do chúng (các ngạ quỷ) đói khát dữ dội), chữ “tăng” (增) nghĩa là tăng thêm, thêm nhiều hơn, họ cảm thấy hết sức đói khát. Trong loài ngạ quỷ, đặc biệt là Diệm Khẩu Quỷ, do trong đời quá khứ đă tạo nghiệp rất nặng, nên thức ăn vừa tới miệng liền phực lửa, cháy thành tro. Do vậy, loài quỷ này rất đáng thương, phải chịu đói khát rất lâu. Nhà Phật từ bi, có một phương pháp gọi là Phóng Diệm Khẩu, chuyên nhờ sức kinh chú gia tŕ khiến cho loài quỷ này có thể ăn được đôi chút đồ ăn. [Do đó, lễ] Phóng Diệm Khẩu mang ư nghĩa mời quỷ ăn cơm, mời họ dùng cơm. Đây là một h́nh thức bố thí, trong đó có tụng kinh, có tài bố thí, có pháp bố thí. “Hữu thuyết bị khu dịch cố, danh Quỷ” (Có thuyết bảo do chúng thường bị sai phái, nên gọi là Quỷ). Họ bị quỷ thần cấp cao hơn thường sai khiến làm chuyện này, chuyện nọ. “Hằng vi chư thiên xứ xứ khu dịch tŕ tẩu” (Ở nơi nào cũng thường bị chư thiên sai khiến phải rong ruổi). Phần đông là bị ai sai phái? Tứ Thiên Vương, Tứ Thiên Vương c̣n gọi là Quỷ Vương, họ cai quản các quỷ thần, các loại quỷ thần đều nghe lệnh của Tứ Thiên Vương. Cơi trời Đao Lợi cũng có, từ trời Dạ Ma trở lên th́ ít [sai khiến các loài quỷ thần này], tại sao vậy? Địa vị càng cao, chẳng cần dùng những loài này. Quá nửa là những tầng trời phía dưới của Dục Giới thường dùng các loài quỷ này để phục dịch, sai khiến.
“Thử đạo diệc biến chư thú” (Loài này có mặt trong mọi cơi), nghĩa là loài quỷ có mặt khắp các cơi trời, cơi người, A Tu La, La Sát, “hữu phước đức giả, tác sơn lâm trủng miếu thần” (những người có phước đức th́ làm thần trong núi, rừng, g̣ mả, miếu thờ), đây là những vị có phước đức th́ làm thần núi, thần thổ địa, họ là quỷ có phước đức. Trong loài quỷ, họ là hạng có địa vị, [địa vị] to như Thành Hoàng th́ phước đức càng cao hơn nữa. Thành Hoàng cũng giống như thị trưởng, huyện trưởng trong cơi người. Chúng ta gọi chung là Thành Hoàng, thật ra, họ có cấp bậc cao thấp. Cao hơn nữa, như Ngũ Nhạc, Đông Nhạc Thái Sơn được gọi là Đế, tức Đông Nhạc Đại Đế. Trung Quốc có Ngũ Nhạc, Nam Nhạc là Hành Sơn, Trung Nhạc là Tung Sơn, [những vị cai quản Ngũ Nhạc] là đại quỷ vương, đều thuộc về quỷ đạo, chẳng thuộc thiên đạo. “Vô phước đức giả” (những kẻ thiếu phước đức), đời trước không tu phước đức, hoặc họ tu phước đức nhưng c̣n tham, sân, si, sẽ đọa ác đạo. Trong ác đạo cũng hưởng phước, làm đại quỷ vương là phước báo rất lớn. Những kẻ chẳng có phước đức, [tức là làm] quỷ mà chẳng có phước đức th́ “cư bất tịnh sở, bất đắc ẩm thực, thường thọ tiên đả, điền hà tắc hải, thọ khổ vô lượng” (ở chỗ chẳng sạch, chẳng được ăn uống, luôn bị đánh đập, ngăn sông, lấp biển, chịu khổ vô lượng). Đây là nói những kẻ chẳng có phước, tạo tội nghiệp tham, sân, si, chẳng tu phước. Người tu phước, nói thật ra, quá nửa đều tu trong cửa Phật. Trong Nho giáo, Phật giáo, và Đạo giáo th́ tu phước trong cửa Phật có hiệu quả nhất, được quả báo cũng nhanh nhất. Chẳng bỏ tham, sân, si mà tu phước, sẽ đọa vào cơi quỷ hoặc cơi súc sanh để hưởng phước. Trong cơi quỷ, những quỷ có phước đức ngần ấy, được nhân gian cúng tế, lễ bái, họ hưởng thụ những sự cúng tế ấy. Đối với cơi súc sanh th́ hiện thời thường thấy nhất là những con thú cưng (pet), chúng nó thuộc loài súc sanh, nhưng được cưng yêu, chiều chuộng. Ai trong gia đ́nh nuôi nó cũng thích nó, chăm sóc từng chút, c̣n hưởng phước hơn bất cứ ai trong nhà. Súc sanh cũng có nhiều phước như vậy! Cũng có thể là nó đến để đ̣i nợ, người trong nhà thiếu nợ nó nên nay phải trả nợ cho nó. Quư vị thiếu nó tiền tài, nên quư vị phải chăm sóc nó thật tốt. Quư vị c̣n thiếu nó thân t́nh, nên quư vị hết sức thương yêu, chiều chuộng nó. Nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai, chúng ta phải hiểu những đạo lư này. Chúng nó là những kẻ sanh vào cơi súc sanh để hưởng phước, toàn là những kẻ [tu phước nhưng] chẳng buông bỏ tham, sân, si, nguyên nhân là như vậy.
Tiếp đó, “Phụ Hoằng Kư vân, hạ phẩm Ngũ Nghịch, Thập Ác giả cảm chi” (sách Phụ Hoằng Kư nói: “Hạ phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy [quả báo ngạ quỷ]). Tôi thấy ở chỗ này, chữ Hạ phải đổi thành chữ Trung, v́ hạ phẩm sanh trong súc sanh đạo, phải đổi thành “trung phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy quả báo ngạ quỷ”, nghĩa là tội nghịch ác khá nhẹ, chẳng phải là nhẹ nhất, nhẹ nhất là hạ phẩm. Tức là lúc họ c̣n sống tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác khá nhẹ, chẳng nghiêm trọng như đă nói trên đây. Nghiêm trọng nhất bèn cảm lấy quả báo địa ngục, nhẹ hơn bèn đọa ngạ quỷ. Ngạ quỷ khổ hơn súc sanh, đoạn sau sẽ nói về súc sanh. Theo đúng lẽ, súc sanh phải là hạ phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác, nghĩa là họ tạo các tội ấy, nhưng tạo tội nhẹ. Tuy vậy, ở đây chúng ta phải ghi nhớ, tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác mà không biết sám hối, chẳng biết quay lại [th́ sẽ đọa ác đạo]. Nếu họ biết sám hối, biết quay lại, chẳng đọa ác đạo! Trong Phật pháp đă nói điều này rất rơ ràng, rành rẽ.
Cổ nhân Trung Quốc hết sức chú trọng sửa lỗi. Có câu: “Con người
chẳng phải
là thánh hiền, ai có thể
không có lỗi. Có lỗi mà có thể
sửa đổi
th́ chẳng
có điều
thiện nào lớn hơn”, đây là đạo lư sửa lỗi. Có lỗi đừng sợ, nhưng phải biết sửa lỗi đổi mới! Nhờ đó mà thánh hiền tu thành tựu, Phật, Bồ Tát cũng nhờ vậy mà thành tựu, chúng ta hăy nên biết điều này. Đặc biệt là các vị tổ sư đại đức thường nhắc nhở chúng ta “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”,
niệm là ư niệm, có thiện niệm và ác niệm. Nói thông thường, đặc biệt trong là thời đại hiện tại, chắc chắn là ác niệm nhiều, thiện niệm ít, chắc chắn là như vậy. Nếu không, lẽ đâu có lắm tai nạn ngần ấy? Nhưng bất kể là thiện niệm hay ác niệm, ư niệm vừa khởi lên bèn lập tức giác ngộ, lập tức biết ngay, vừa biết như vậy, liền dùng câu Phật hiệu để thay thế nó. Như vậy là biết niệm Phật. Thật sự biết niệm Phật, ư niệm vừa dấy lên, bèn “A Di Đà Phật”, quay trở về A Di Đà Phật ngay! A Di Đà Phật là ư niệm thiện nhất trong thế gian và xuất thế gian, là ư niệm vô cùng thiện, tại sao vậy? V́ nó có thể giúp quư vị văng sanh thế giới Cực Lạc để làm Phật. Quư vị xem thử c̣n có ư niệm nào có công đức to tát ngần ấy hay chăng? Chẳng thể nào kiếm được. Chỉ có ư niệm này, niệm niệm thông đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm niệm cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Người thật sự niệm Phật, mỗi niệm đều được mười phương chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo vệ, hộ tŕ quư vị, v́ sao quư vị không chịu niệm Phật? Người niệm Phật thân tâm khoẻ mạnh, gia đ́nh ḥa thuận, tai nạn xa ĺa. Cổ nhân có câu “dẫn cát, tránh hung, gặp nạn
hóa thành cát tường”. V́ lẽ đó, phải nên niệm Phật, đổi hết thảy tâm niệm thành A Di Đà Phật, như vậy th́ mới là đúng. Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta học tới đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 98 hết
[1] Gregg
Braden từng là chuyên viên điện toán địa chất
cho công ty dầu hỏa Phillips Petroleum vào những năm
1970, rồi làm chuyên viên thiết kế cao cấp cho hệ
thống điện toán của hăng dịch vụ quốc
pḥng hàng không Martin Marietta. Năm 1991, ông từng làm Quản
Trị Trưởng của phân bộ Dịch Vụ
Kỹ Thuật trong hăng Cisco (hăng chuyên sản xuất các máy
móc và các nhu liệu phục vụ kỹ thuật
điều hành, quản trị hệ thống máy tính). Các
tác phẩm nổi tiếng của ông là The Isaiah Effect, The
God Code (mật mă của Thượng Đế), The Divine
Matrix (Ma trận thiêng liêng), The
Spontaneous Healing of Belief (tạm
dịch Liệu Pháp Tự Phát Bằng Niềm Tin). Tờ
Thời Báo Nữu Ước (Newyork Times) đă đánh giá
ông là tác giả có sách bán chạy nhất vào năm 2008.
[2] Tiểu Khang là quan niệm của Nho gia về một thời đại thịnh trị, nhân dân an lạc, giàu có, chánh trị ổn định. Tuy có những biến động hoặc loạn lạc nhỏ, nhưng nh́n chung cuộc sống ổn định, ḥa b́nh, vua biết thương dân, sử dụng vương đạo để cai trị, quan lại đa số thanh liêm, dân chúng phong tục thuần phác, lễ nghĩa, nhường nhịn, tuân thủ pháp luật. Nho gia thường đánh giá các đời vua Thành Thang, Châu Văn Vương, Châu Vũ Vương là Tiểu Khang.
[3] Thành ngữ này phát xuất từ một truyện ngắn của nhà văn Lỗ Tấn, có tên là “A Q. chánh truyện”. Trong tác phẩm ấy, A Q. (Lỗ Tấn nói anh chàng này chẳng biết tên là Quư, Quy hay Quế, nên gọi xách mé là Q. theo kiểu kư âm phương Tây) là một anh chàng thất học, nghèo kiết, văn dốt vũ dát, thô lỗ, nhưng luôn ra vẻ ta đây là người
có ăn học,
ḍng
dơi
cao
quư.
Do
thường
bị
kẻ
khác
giày
xéo,
chà
đạp,
hắt
hủi,
ức
hiếp,
nên để
tự
an
ủi,
anh
ta
thường
huyễn
hoặc
ḿnh
cao
sang
hơn
người
khác,
vận
dụng
cái
gọi
là
“thắng
lợi
tinh
thần”
để
tự
an
ủi
ḿnh.
Chẳng
hạn
khi
bị
kẻ
khác
đánh
đập
tàn
nhẫn,
bèn
lầm
bầm:
“Nó
đánh
ḿnh
cũng
như
con
bất
hiếu đánh bố, mày đánh tao tức là con đánh bố”.